Mobile: 078 33 88 911
Email: caytieuvn@gmail.com

19/11/16

Hình minh họa
Trong năm nay (2016), hai hoạt chất dùng để diệt nấm, cỏ cho cây trồng là Carbendazim và Paraquat với hơn 300 tên thuốc bảo vệ thực vật liên quan sẽ bị loại khỏi ra khỏi danh mục thuốc được phép sử dụng tại Việt Nam. Đây là thông tin mới nhất từ Cục Bảo vệ thực vật, bà con trồng trọt nên lưu ý để tránh sử dụng các loại thuốc có những hoạt chất nguy hiểm này.

Carbendazim là một hoạt chất dùng để diệt nấm trên nhiều loại nông sản nhưng các thị trường như Hoa Kỳ, châu Âu đều đã cấm do nguy cơ gây ung thư và dị tật thai nhi. Còn thuốc trừ cỏ Paraquat lại gây ảnh hưởng tới môi trường đất, nước. Ngoài 2 hoạt chất này, Cục Bảo vệ thực vật cũng đang tiến hành rà soát toàn bộ danh mục thuốc bảo vệ thực vật với hơn 4.000 tên thương phẩm. Những loại thuốc nào không buôn bán sử dụng trong thời gian qua sẽ bị loại bỏ luôn.


Theo VOV
Hình minh họa
Thuốc trừ bệnh còn gọi là thuốc trừ nấm cây được dùng để phòng trừ nhiều loại vi sinh vật gây bệnh cho cây trồng và các loại nông sản.

Tuy có tên gọi là thuốc trừ nấm (Fungicide) nhưng nhóm thuốc này chẳng những có hiệu lực phòng trị nấm ký sinh, mà còn có tác dụng phòng trừ vi khuẩn, xạ khuẩn gây hại cho cây và nông sản.

Tác động của thuốc trừ bệnh (thuốc trừ nấm) đến vi sinh vật gây bệnh cho cây trồng

Dựa theo tác động của thuốc đến vi sinh vật, có thể phân các thuốc trừ nấm thành 2 nhóm:

– Thuốc có tác dụng phòng bệnh: (còn gọi là thuốc có tác dụng bảo vệ cây). Thuốc được phun xịt lên cây hoặc trộn – ngâm  hạt giống, có tác dụng ngăn ngừa vi sinh vật gây bệnh có thể xâm nhập vào bên trong mô thực vật để phát triển rồi gây hại cho cây trồng. Những thuốc này phải được dùng sớm, khi dự báo bệnh có khả năng xuất hiện và gây hại cho thực vật. Nếu dùng chậm thuốc không thể ngăn chặn được bệnh phát triển. Ví dụ: Boóc đô, Đồng oxyclorua, Monceren, Mancozeb, Chlorothalonil, Propineb…

– Thuốc có tác dụng trừ bệnh: Khi phun lên cây, thuốc có khả năng xâm nhập dịch chuyển bên trong mô thực vật và diệt được vi sinh vật gây bệnh đang phát triển ở bên trong mô thực vật. Nhiều loại thuốc trừ nấm thông dụng ở nước ta là những thuốc có tác dụng trị bệnh như  Aliette, Anvil, Kitazin, Validacin, Metalaxyl, Carbendazim…

Khi bệnh vừa chớm phát hiện cần phải tiến hành phun thuốc phòng trừ ngay. Phun muộn thì cho dù có diệt được nấm bệnh ở bên trong mô thực vật, nhưng cây sẽ khó hồi phục và điều này sẽ ảnh hưởng đến năng suất cây trồng, chất lượng nông sản.

Đặc điểm chung của các thuốc trừ bệnh

Cũng như các loại thuốc khác, đa số các thuốc trừ nấm sử dụng trong nông nghiệp đều là các hợp chất hữu cơ tổng hợp, so với thuốc trừ sâu thì thuốc trừ nấm thuộc nhiều nhóm hoá học hơn, phức tạp hơn.

Một số ít thuốc trừ nấm vô cơ còn được dùng hiện nay là các thuốc chứa đồng (Boóc đô, Đồng oxyclorua, Đồng sunfat…) thuốc chứa lưu huỳnh (Micrithiol, Sulox…)

Một số thuốc trừ nấm bệnh là những chất kháng sinh (Validamicin, Kasugamicin…)

Có những thuốc trừ nấm chỉ có tác dụng phòng trị một hoặc vài bệnh nhất định.

Ví dụ Kitazin P chỉ có tác dụng trị bệnh đạo ôn (Bệnh cháy lá) hại lúa. Có những loại lại có tác dụng trừ được rất nhiều loại nấm bệnh khác nhau, trên nhiều cây trồng khác nhau, ví dụ: các thuốc trừ nấm Boóc đô, Đồng oxyclorua, Benlat – Copper Sulfate ,…

Sử dụng có hiệu quả thuốc phòng và trừ bệnh

Nên sử dụng thuốc phòng bệnh khi thấy có những điều kiện phù hợp cho nấm bệnh phát triển (thường là sau khi có mưa kéo dài và độ ẩm không khí cao hoặc tại địa phương phát hiện đã nhiễm bệnh).

Khi thấy bệnh vừa chớm xuất hiện, cũng có thể ngắt những lá bị bệnh đem đốt đi và phun thuốc phòng để bệnh không lan sang cây khác. Với những cây có giá trị kinh tế cao, nên phun thuốc phòng bệnh theo định kỳ.

Khi bệnh có dấu hiệu lan rộng thì nên phun thuốc trừ bệnh, tốt nhất là nên tham khảo ý kiến cán bộ kỹ thuật ở địa phương để chọn loại thuốc trị bệnh hữu hiệu nhất cho loại bệnh cần trừ. Trong một số trường hợp, có các tổ nấm cùng xuất hiện một lúc nên một loại thuốc trừ bệnh có thể không loại bỏ được hết chúng. Để khắc phục có thể phun hỗn hợp hai loại thuốc phòng và trừ một lúc (như Metalaxyl + Mancozeb, Carbendazim + Sulfur…) bằng cách sử dụng các thuốc tổng hợp đã có sẵn ở thị trường hoặc tự mua từng loại riêng rẽ về và pha hỗn hợp trong bình phun. Thuốc trừ bệnh không như trừ sâu và cỏ dại, cần được sử dụng ở giai đoạn sớm vì không thể cứu cây trồng khi đã bị bệnh làm héo, thối,…

Trong các thuốc trừ nấm có một số loại nếu không sử dụng đúng kỹ thuật, thuốc sẽ gây hại cho cây trồng. Thuốc Boóc đô nếu không được pha chế đúng cách, khi phun dễ có khả năng gây cháy lá hoặc làm cho hoa bị hại; thuốc lưu huỳnh dùng vào những ngày bị nắng nóng nhiều có thể trở thành kém an toàn với cây.

Sưu tầm
Hình minh họa
Thuốc trừ sâu được sử dụng để phòng trừ các loại sâu hại cây trồng trên đồng ruộng, nông sản trong kho. Một số ít thuốc trừ sâu cũng có tác dụng phòng trừ  nhện đỏ hại cây.

Tác động của thuốc trừ sâu đến sâu hại


Thuốc trừ sâu có thể tác động đến sâu hại theo nhiều cách khác nhau:

+ Tác động đến đường ruột, còn gọi là tác động vị độc
: Thuốc sâu được phun, rải trên lá, thân cây,… khi sâu ăn thuốc cùng thức ăn (lá cây, vỏ thân cây,…) xâm nhập vào bộ máy tiêu hoá của sâu rồi gây độc cho sâu hại.

+ Tác động tiếp xúc: Khi phun xịt thuốc lên cơ thể côn trùng hoặc côn trùng di chuyển trên thân lá của cây có phun thuốc, thuốc sẽ thấm qua da đi vào bên trong cơ thể rồi gây độc cho sâu hại.

+ Tác động xông hơi: Thuốc ở thể khí (hoặc thuốc ở thể lỏng hay thể rắn nhưng có khả năng bay hơi ở điều kiện thường, chuyển sang thể khí) xâm nhập vào cơ thể côn trùng qua các lỗ  thở (qua đường hô hấp) rồi gây độc hại.

+ Tác động thấm sâu: Sau khi thuốc BVTV được phun lên mặt lá, lên thân cây, thuốc có khả năng xâm nhập vào bên trong mô thực vật và diệt được những sâu hại ẩn náu trong mô cây. (ví dụ: Sâu non của sâu vẽ bùa hại lá cam quýt).

+ Tác động nội hấp (hay lưu dẫn): Thuốc BVTV được phun lên cây hoặc tưới, bón vào gốc; thuốc có khả năng hấp thụ vào bên trong, dịch chuyển đến các bộ phận khác của cây, gây độc cho những loại sâu chích hút nhựa cây.

Những thuốc trừ sâu có tác động thấm sâu hay lưu dẫn sau khi phun lên lá được > 6 giờ nếu có gặp mưa ít bị rửa trôi, do thuốc đã có đủ thời gian xâm nhập  vào bên trong thân, lá.

+ Tác động gây ngán: Sâu hại mới bắt đầu ăn phải những bộ phận của cây có nhiễm thuốc có tác động gây ngán thì đã ngừng ngay, không ăn. Sau cùng sâu sẽ chết vì đói.

+ Tác động xua đuổi: Thuốc sâu hại phải di dời ra xa các bộ phận có phun xịt thuốc, do vậy không gây hại được cho cây.

Đặc điểm chung của các thuốc trừ sâu

– Đa số những thuốc trừ sâu dùng trong sản xuất nông nghiệp đều là những chất hữu cơ tổng hợp :

Thuốc trừ sâu lân hữu cơ, thuốc trừ sâu Pyrethroid (Cúc trừ sâu tổng hợp), thuốc điều hoà sinh trưởng côn trùng, (như Atabron, Nomolt…), thuốc trừ sâu Cacbamat, và các hợp chất hữu cơ khác (Padan, Trebon, Confidor, Regent,…).

Một số loại thuốc trừ sâu không phải là những hợp chất hoá học do con người tổng hợp ra, chúng là những chế phẩm chứa những vi sinh vật hoặc những độc tố do vi sinh vật tạo ra có tác dụng trừ sâu: Bacterine, Xentari, NPV, Beauverine,…

Ngoài ra có một số thuốc trừ sâu có nguồn gốc thực vật: Fortenone (Rotenone) chế từ rễ cây ruốc cá, thuốc trừ sâu Nimbecidine chế từ hạt cây Neem (xoan ấn độ).

-Thuốc trừ sâu thường tác động đến sâu hại ở giai đoạn sâu non (ấu trùng). Sâu non ở tuổi càng nhỏ càng dễ mẫn cảm với thuốc, dễ bị thuốc gây độc. Trưởng thành của nhiều loại sâu hại cũng dễ bị thuốc gây độc (rầy nâu, bọ xít, bọ cánh cứng,…).

– Thuốc trừ sâu thường ít có hiệu quả đối với giai đoạn nhộng. Đa số các thuốc trừ sâu tổng hợp hữu cơ tác động đến hệ thần kinh côn trùng, có tác động tiếp xúc, vị độc, và cả xông hơi, diệt côn trùng tương đối nhanh: Thuốc trừ sâu lân hữu cơ, Cacbamat, cúc trừ sâu …

Một số thuốc trừ sâu có tác động chủ ngăn cản sự lột da của sâu non và ấu trùng và hiệu lực trừ sâu thể hiện chậm hơn: Atabron, Nomolt, Applaud…

Có loại thuốc trừ sâu lại tác động chủ yếu đến hệ tiêu hoá, phá huỷ vách ruột côn trùng: Thuốc trừ sâu BT.

Thuộc về nhóm thuốc trừ sâu còn có những hợp chất tuy không gây độc trực tiếp cho sâu hại nhưng lại góp phần hạn chế đáng kể tác hại của chúng đến mùa màng, chất dẫn dụ Methyl Eugenol không gây độc trực tiếp cho côn trùng nhưng có tác dụng thu hút nhiều loại ruồi đục trái cây từ xa di chuyển đến nơi có phun thuốc khiến cho số lượng côn trùng bị nhiễm độc tăng cao (bẫy ruồi đục quả Vizubon D), từ đó mà làm tăng hiệu quả của thuốc trừ sâu. Hoặc  việc sử dụng những bẫy Pheromone trên đồng ruộng vào thời điểm côn trùng trưởng thành ra rộ sẽ ngăn cản sự ghép cặp để giao phối của chúng, khiến cho chúng không sinh sôi phát triển được. Sự hiểu biết về cơ chế tác động của thuốc trừ sâu đến sâu hại là cơ sở xây dựng kế hoạch dùng luân phiên thuốc trừ sâu trên các ruộng vườn chuyên canh nhằm ngăn ngừa hoặc khắc phục hiện tượng kháng thuốc của sâu hại.

– Tính độc của thuốc trừ sâu đối với người và động vật có ích thay đổi nhiều tùy theo nhóm thuốc, loại thuốc, dạng thành phần.

Có những thuốc rất ít độc với người và động vật máu nóng: BT, Applaud, Nomolt,… chúng được khuyến khích sử dụng trừ sâu trên rau xanh, trái cây,… có những thuốc có độ độc cấp tính tương đối cao đối với người và động vật máu nóng: Methomyl,… lại có những thuốc có tính độc cao với ong hoặc đối với cá hoặc đối với thiên địch của sâu hại: Thiodan,… Trước khi quyết định chọn mua một loại thuốc trừ sâu, cần đọc kỹ phần giới thiệu trên nhãn thuốc về những nội dung nêu trên để cân nhắc, lựa chọn được loại thuốc thích hợp.

Sưu tầm

13/11/16

Hạt tiêu Kampot đã được Bộ Thương mại Campuchia cấp chứng nhận chỉ dẫn địa lý từ tháng 4-2010, hình thành thương hiệu tập thể cho người trồng tiêu tại Kampot. Đến nay, Liên minh châu Âu cũng đã công nhận thương hiệu tiêu này.

Mặc dù là cái nôi của ngành sản xuất hồ tiêu Campuchia, nhưng tỉnh Kampot chỉ chiếm một diện tích trồng tiêu khá khiêm tốn, khoảng 125 ha (tương đương 3% tổng diện tích trồng tiêu Campuchia  năm 2014). Tuy nhiên, hạt tiêu được trồng ở đây khá nổi tiếng nhờ chất lượng vượt trội với hương vị cay nồng đặc trưng, khác hẳn hồ tiêu tại các vùng khác do có một quy trình canh tác rất đặc thù của địa phương từ lâu đời, sử dụng hoàn toàn các loại phân xanh, phân hữu cơ, thậm chí các loại thuốc bảo vệ sâu bệnh cũng mang tính truyền thống trên cơ sở đặc tính đất đai, giống và nguồn nước nơi đây.

Việc hình thành thương hiệu tiêu Kampot đã tác động tích cực đến nhu cầu của thị trường đối với mặt hàng này, làm tăng giá trị sản phẩm, đem lại lợi ích rất lớn cho người trồng tiêu. Cụ thể: năm 2015, giá hạt tiêu đen là 15 USD/kg, tăng gấp 3,3 lần so với năm 2009; giá tiêu đỏ là 25 USD/kg, tăng gấp 3,1 lần; giá bình quân tiêu trắng là 26 USD/kg, tăng gấp 2,6 lần. Qua đó cho thấy lợi ích rất lớn của việc hình thành thương hiệu quốc tế song song với việc đảm bảo ổn định về chất lượng trong quá trình sản xuất hồ tiêu mà vùng Kampot đã làm được.

Đây là bài học kinh nghiệm rất thiết thực cho ngành hàng hồ tiêu Việt Nam.

H.Châu 
Nguồn: VPA

Theo ông Đỗ Hà Nam, Chủ tịch Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam, hiện giá tiêu khoảng 120.000 đến 130.000 đồng/kg. Cây tiêu vẫn là cây trồng cho lợi nhuận cao nhất so với nhiều loại cây trồng khác.

Tính đến nay, diện tích hồ tiêu đạt gần 110.000 ha, tăng gấp hơn 2 lần so quy hoạch đến năm 2020, trong đó vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ chiếm hơn 93%.

Các tỉnh có diện tích hồ tiêu lớn là Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai, Bình Phước, Đồng Nai và Bà Rịa Vũng Tàu. Năng suất bình quân hồ tiêu hơn 2,6 tấn/ha, riêng vùng Tây Nguyên bình quân cao nhất gần 3,1 tấn/ha. Năm 2016, dự kiến xuất khẩu hồ tiêu đạt 150.000 tấn, kim ngạch hơn 1,2 tỷ USD, tăng 13 % so với cùng kỳ năm 2015.

Với sự phát triển nhanh chóng về diện tích và sản lượng, ngành hồ tiêu Việt Nam cũng đối diện nhiều nguy cơ như sản xuất luôn bấp bênh, chi phí đầu tư cao, sự thâm canh quá mức, thiếu kiến thức về canh tác bền vững, sản xuất theo chuỗi giá trị, xây dựng hồ sơ truy xuất nguồn gốc, xuất xứ, giống tiêu chưa được nghiên cứu chọn lọc có hệ thống, dễ nhiễm sâu bệnh, dễ tồn dư hoá chất trên sản phẩm tiêu hạt...

Từ năm 2000 đến nay, Việt Nam sản xuất và xuất khẩu hồ tiêu đứng hàng đầu thế giới, chiếm 50% sản lượng xuất khẩu của thế giới. Hiện hồ tiêu Việt Nam đã có mặt ở 95 quốc gia và vùng lãnh thổ.

Nguyễn Thắng
Theo VOH

4/11/16

 Trước việc diện tích hồ tiêu trên địa bàn cả nước tăng mạnh, diễn đàn về “Giải pháp phát triển hồ tiêu bền vững Khu vực Đông Nam bộ và Tây Nguyên” diễn ra ngày 31/10 tại tỉnh Bình Phước do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức đã đưa ra thông tin về hoạch định cho nông dân vùng Đông Nam bộ và Tây Nguyên là vùng chủ lực trồng hồ tiêu cả nước nhận diện các vấn đề, phòng tránh những rủi ro cho người trồng hồ tiêu khi hội nhập.

Cục Trồng trọt - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết đang tiến hành rà soát, đánh giá các điều kiện sinh thái thích nghi với cây hồ tiêu; loại bỏ diện tích ít thích hợp và không thích hợp để phát triển ổn định và bền vững. Đồng thời, nâng cao tỷ lệ diện tích hồ tiêu sản xuất theo hướng an toàn; trong đó, ưu tiên các mô hình sản xuất sạch có chứng nhận.

Mặt khác, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ tuyển chọn giống tốt, áp dụng các biện pháp canh tác tiến bộ như tưới tiết kiệm, bón phân qua lá, kiểm soát dịch hại. Thời gian tới, sẽ ưu tiên tổ chức sản xuất theo hướng liên kết, hình thành tổ hợp tác, hợp tác xã để chia sẻ kinh nghiệm, đưa kỹ thuật canh tác theo hướng GAP; đảm bảo sản phẩm an toàn, để nâng cao vị thế trong việc tiêu thụ sản phẩm hồ tiêu của Việt Nam.

Diện tích hồ tiêu cả nước hiện đang tăng nhanh, vượt trên 51.000 ha so với quy hoạch. Tính đến năm 2016, diện tích hồ tiêu cả nước đạt trên 110 nghìn ha; trong đó vùng Tây Nguyên và Đông Nam bộ chiếm trên 93% của cả nước. S ản lượng ước đạt trên 176.000 tấn; trong đó, Tây nguyên và Đông Nam bộ chiếm 95%. Các tỉnh đạt sản lượng lớn là Gia Lai, Đắk Lắk và gần đây là Bình Phước…

Các nhà hoạch định cho rằng, việc “ồ ạt” trồng hồ tiêu trên cả nước đang vượt xa kế hoạch quy hoạch phê duyệt của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có thể dẫn đến nhiều hệ lụy và việc trồng hồ tiêu của nhà nông dễ phát sinh rủi ro.

Theo Chủ tịch Hội Hồ tiêu Việt Nam Nguyễn Mai Oanh, dự báo năm 2016 sản lượng hồ tiêu xuất khẩu vượt 150.000 tấn; trong đó, 9 tháng năm 2016 đã xuất khẩu đạt 132 nghìn tấn, với giá trị kim ngạch trên 1,2 tỷ USD, tăng trên 32% so với năm 2015.

Bà Oanh cho rằng, sản phẩm hồ tiêu Việt Nam đạt chất lượng khá tốt, đáp ứng được thị trường khó tính. Nhưng để duy trì phát triển bền vững, các doanh nghiệp và nhà nông phải xây dựng vùng nguyên liệu bằng liên kết; tổ chức sản xuất hồ tiêu theo chuỗi giá trị, xây dựng được nguồn gốc xuất xứ hồ tiêu để đảm bảo tiêu thụ sản phẩm có uy tín.

Bà Oanh cho biết thêm, nhà nông là người quyết định tất cả cho sản phẩm, bởi trong quá trình sản xuất người nông dân có sử dụng thuốc bảo vệ thực vật. Theo đó, cần nâng cao nhận thức về canh tác hồ tiêu theo đúng quy trình; mạnh dạn liên kết với doanh nghiệp để sản xuất hồ tiêu sạch mới đảm bảo tính bền vững cho thương hiệu.

Theo Cục Trồng trọt đánh giá, đến nay diện tích hồ tiêu vượt trên 50.000 ha và đang phá vỡ quy hoạch là do giá một số loại cây trồng xuống thấp, không ổn định, trong khi giá hồ tiêu tăng cao liên tục nhiều năm qua, sản phẩm hồ tiêu dễ tiêu thụ nên nông dân chuyển dịch sang trồng hồ tiêu.

Trước việc gia tăng diện tích cây hồ tiêu, nhưng hiện nay nhiều địa phương, nhất là bà con nông dân vùng Đông Nam bộ và Tây Nguyên là "thủ phủ" hồ tiêu cả nước vẫn chưa làm chủ được nguồn giống tốt cho năng suất cao, đặc biệt sản phẩm chưa mang tính đồng đều. Mặt khác, giống tiêu chưa được nghiên cứu chọn lọc có hệ thống; dễ nhiễm sâu bệnh; kỹ thuật canh tác còn nhiều tồn tại về thiết kế vườn, bón phân, chăm sóc, chống úng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và chưa có giải pháp đồng bộ phòng trừ dịch bệnh…/.

 Mard theo TTXVN








Tháng 4-2016, Ủy ban châu Âu đã đệ trình lên Tổ chức Thương mại thế giới bản dự thảo sửa đổi quy định trong các phụ lục 2 và phụ lục 3 - Quy định (EC) số 396/2005 tăng mức quy định về mức dư lượng tối đa cho phép (MRLs) đối với một số hóa chất như acrinathrin, bifenthrin, carbetamide, cinidon-ethyl, fenpropimorph, triflusulfuron và metalaxyl, chất thường dùng trị nấm bệnh trên hồ tiêu với mức quy định mới MRLs là 0,01ppm.

Trước sự việc này, sau khi tập hợp thông tin từ nhiều cơ quan, ngày 12-9-2016, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã chính thức gửi thư cho Tổ chức Thương mại thế giới, trước hạn quy định là 16-9-2016 với những lý do đề nghị không áp dụng quy định mới: Không có căn cứ khoa học phản bác khi chính ý kiến của Cơ quan An toàn Thực phẩm châu Âu (EFSA) thì với mức MRLs của metalaxyl hiện tại 0,1ppm, chưa phát hiện bất cứ rủi ro nào về an toàn thực phẩm liên quan tới người tiêu dùng. Cà chua (mã 0231010) và hành tây (mã 0220040) là 2 sản phẩm được dùng hằng ngày nhiều hơn hạt tiêu rất nhiều mà mức MRLs cho các sản phẩm này lại từ 0,2 lên 0,3ppm thì việc điều chỉnh MRLs của hạt tiêu từ 0,1ppm xuống 0,01 ppm rõ ràng là không thỏa đáng.

Thư của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng cảnh báo nếu áp dụng dự thảo mới sẽ ảnh hưởng lớn đến thương mại hai phía khi số liệu từ Ủy ban châu Âu cho thấy Việt Nam chiếm tới 60% tổng lượng hạt tiêu EU cần nhập, nếu hạ mức MRLs thì chỉ còn khoảng 1-2% lượng hồ tiêu có thể vào EU.

Với những ý kiến xác đáng đã nêu, hy vọng việc xuất khẩu hồ tiêu của Việt Nam vào thị trường châu Âu thời gian tới không bị ảnh hưởng.

Metalaxyl là hoạt chất trừ nấm thuộc nhóm Alanine, đặc biệt hiệu quả với nhóm nấm Oomycetes mà hai đại diện điển hình của nó làPhytophthora và Pythium gây nên các bệnh nghiêm trọng trên cây trồng. Metalaxyl được đăng ký lần đầu tiên để phòng trừ dịch hại tại Mỹ năm 1979, hiện nay tại Mỹ đã có 81 sản phẩm hoạt chất Metalaxyl đã được đăng ký sử dụng.

Thông tư 21/2013/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp & PTNT ban hành Danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng, hạn chế sử dụng và cấm sử dụng ở Việt Nam, hiện có 38 công ty đăng ký 59 loại thuốc thương phẩm hoạt chất Metalaxyl để phòng trừ bệnh hại trên nhiều loại cây trồng. Trong đó có 18 thuốc thương phẩm đơn chất Metalaxyl (Alfamil 25WP, 35WP; Binhtaxyl 25 EC; Lâmbac 35 SD; Mataxyl  25WP; Rampart 35SD…), 41 thuốc thương phẩm của 13 dạng hỗn hợp giữa Metalaxyl với các hoạt chất khác như Carbendazim + Metalaxyl  (Co-mexyl 600SC); Copper Oxychloride + Metalaxyl (Viroxyl 58 WP); Mancozeb + Metalaxyl (Mancolaxyl  72WP, Ridomil Gold   68WG, Mekomilgold 680WG)...

Theo T.L/Chuyennhanong.vn
Đó là khuyến cáo của chuyên gia hồ tiêu Nguyễn Phước Bính, Phó chủ tịch Hội hồ tiêu Chư Sê  khi trả lời câu hỏi của một nông dân Bình Phước về giá tiêu giảm từ tháng 9-2016 và vẫn đang tiếp tục giảm. Theo ông Bính, giá hồ tiêu sẽ tiếp tục giảm, nhưng bà con nông dân không nên bỏ rơi loại cây này.

Ông Bính cho biết ông vừa dự hội nghị dự báo thị trường hồ tiêu những năm tới của Hiệp hội Hồ tiêu thế giới (IPC). Ông Bính cho rằng cũng như các nông sản khác, thị trường hồ tiêu theo chu kỳ tăng - giảm. Giá tiêu bắt đầu tăng trở lại từ năm 2010, đạt đỉnh điểm vào năm 2015 và 2-3 năm tới giá sẽ giảm. Ông Bính khuyến cáo dù giá có giảm xuống ngưỡng 50.000 đồng/kg thì nông dân vẫn phải đầu tư chăm sóc cây tiêu theo hướng bền vững, hữu cơ hóa vườn tiêu, sản xuất tiêu sạch, không có dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, đặc biệt là chất cấm mà thị trường EU, Mỹ, Nhật Bản đã cảnh báo trong gần 3 năm qua.

Ông Bính cũng khuyến cáo bà con nên sử dụng phân bò hoai (bò ăn cỏ) bón cho hồ tiêu, đặc biệt không nên sử dụng phân gà công nghiệp, phân heo. Nguyên nhân do phân gà 80% là trấu, heo ăn cám công nghiệp, phân đều có chứa asen làm nảy sinh mầm bệnh trong đất, trong khi cây tiêu rất nhạy cảm với các loại nấm bệnh.

Giá tiêu bắt đầu giảm từ tháng 9-2016. Ngày 1-11-2016, giá tiêu ở Bình Phước 128.000 đồng/kg, giảm 1.000 đồng/kg so với trước đó 1 ngày; giảm khoảng 50.000 đồng/kg so với tháng 5-2016.

P.Thảo
Theo BP Online

3/10/16

Trước tình hình cây hồ tiêu mang lại lợi nhuận cao, người dân nhiều tỉnh thành phía Nam sẵn sàng đốn hạ vườn cao su, điều, cà phê... để chạy theo giấc mộng làm giàu trước mắt.
Vườn tiêu Việt
 Trong vòng 6 năm qua, cây tiêu đã là cây trồng “nóng” về giá không chỉ ở tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu mà nhiều tỉnh thành phía Nam. Nông dân Bà Rịa-Vũng Tàu đã ồ ạt chuyển qua trồng hồ tiêu, khiến cho diện tích cây trồng này vượt quy hoạch của tỉnh gần 3.000 ha.

Bắt đầu từ mức giá 100.000 đồng/kg vào năm 2010, lần lượt lên 190.000 đồng/kg vào các năm tiếp theo, rồi lên ở mức 230.000 đồng/kg vào năm 2015, cây tiêu đã được mệnh danh cây cứu cánh của nhiều nông dân.

Gia đình ông Trần A Thuận, ngụ thôn Tam Long, xã Kim Long, huyện Châu Đức, cách đây 2 năm đã phá bỏ 3 ha vườn cao su 10 năm tuổi để chuyển qua trồng hồ tiêu xen chuối và bưởi. Theo ông Thuận, mặc dù cao su đang độ tuổi cho thu hoạch nhưng do giá mủ rớt xuống quá thấp chỉ khoảng 4.500 đồng/kg, nên gia đình ông quyết định chuyển hết diện tích vườn cao su sang trồng hồ tiêu – loại cây trồng đang có giá cao ngất ngưởng hiện nay.

Cũng theo tính toán của ông Thuận, với giá mủ cao su rớt xuống thấp, gia đình ông thu về chỉ khoảng 60 triệu đồng/3 ha/năm, sau khi trừ chi phí như công chăm sóc, phân bón, nhân công, ông chỉ còn lời 30 triệu đồng. Trong khi đó, mỗi 1 ha tiêu thu được 3-4 tấn, sau khi trừ chi phí, người trồng có lãi khoảng 500-600 triệu đồng.

Ông Nguyễn Anh Tuấn, ngụ xã Hòa Hội, huyện Xuyên Mộc là một trong những chủ vườn điều có tiếng một thời về năng suất, chất lượng của huyện Xuyên Mộc, với diện tích 7 ha. Nhưng đến thời điểm này, ông Tuấn cũng chuyển dần diện tích hơn 2 ha điều sang trồng tiêu.

Theo ông Tuấn, với 2 ha tiêu, thu hoạch từ 6-8 tấn, sẽ cho thu nhập trên 1 tỷ đồng mỗi năm, trong khi đó cả 7 ha điều, mỗi năm ông cũng thu về khoảng hơn 200 triệu đồng. Chưa kể cây điều còn phụ thuộc nhiều vào thời tiết nên năng suất và hiệu quả không cao.

Ngoài chặt bỏ các cây trồng một thời có giá trị kinh tế cao cho người nông dân như cao su, điều, cà phê, ca cao… nhiều hộ nông dân trên địa bàn tỉnh còn “liều” trồng cây hồ tiêu trên các vùng đất khô cằn, thiếu nước. Vùng đất trước đây chỉ có thể trồng các loại cây trồng chịu hạn cao như cây tràm.

Ông Nguyễn Minh Thành, tổ 1, ấp 3, xã Hòa Hội, huyện Xuyên Mộc đã trồng gần 1ha tiêu trên diện tích đất trước đây người dân xung quanh chỉ có thể trồng tràm do đất khô cằn, thiếu nước trầm trọng. Ông cho biết sau khi phá tràm, gia đình ông đã trồng qua nhiều loại cây trồng khác nhau nhưng lợi ích kinh tế không cao, cũng như khó khăn về nước tưới.

Tuy nhiên, do thấy lợi nhuận khủng mà cây tiêu đem lại nên gia đình ông quyết định trồng. Đến nay, vườn tiêu của ông đã được 3 năm, cho thu hoạch trung bình khoảng 5,5 tấn/1ha. Năm 2015, sau khi trừ chi phí ông còn thu về hơn 400 triệu đồng. Ông cho biết thêm, do trồng trên đất cát nên đất nhanh khô, mặc dù vào mùa mưa nhưng cứ 2 ngày ông phải tưới nước cho cây tiêu 1 lần. Còn vào mùa khô vườn tiêu của ông luôn bị vàng vọt do thiếu nước trầm trọng, chính vì vậy gia đình ông mất rất nhiều công sức, tiền của để chăm sóc, cứu vườn tiêu mỗi mùa khô hạn.

Theo khảo sát của chúng tôi, do lợi nhuận quá lớn từ cây tiêu nên người nông dân chấp nhận rủi ro, trồng tiêu trên tất cả các loại đất có thể trồng, kể cả vùng đất trũng, ẩm, thoát nước kém...

Ông Nguyễn Bé, xã Láng Lớn, huyện Châu Đức cho biết cách đây 2 năm vườn tiêu gần 1 ha của ông mắc bệnh chết nhanh, chết chậm nên ông đã mua giống tiêu ghép về trồng (giống tiêu ngành chức năng chưa khảo nghiệm và công nhận về chất lượng). Ông Bé cho biết ông chỉ mong giống tiêu này phát triển tốt, còn năng suất chỉ bằng 1 nửa giống tiêu bình thường là "sống" rồi, còn như giống tiêu đang trồng thì cứ trồng xuống là bị chết khiến người dân liên tục thất thu.

Theo một cán bộ nông nghiệp của huyện Châu Đức, lợi nhuận từ trồng tiêu quá rõ, do đó không thể nào định hướng cho nông dân dừng trồng.

Với đà này, trong khi đất trồng cao su, cà phê và các loại cây trồng khác phù hợp với trồng hồ tiêu, thì nông dân sẽ còn tiếp tục phá rừng cao su, cà phê và các cây trồng khác để thay bằng cây tiêu.

Theo bà Trần Thị Hiến, Phó Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, cho biết diện tích trồng hồ tiêu trên địa bàn tỉnh đang tăng chóng mặt. Theo quy hoạch, đến năm 2020, diện tích trồng tiêu sẽ ở mức 8.300ha; trong đó, tập trung chủ yếu ở huyện Châu Đức và huyện Xuyên Mộc với khoảng 6.100 ha, còn lại là ở thành phố Bà Rịa, huyện Tân Thành và huyện Đất Đỏ.

Cũng theo quy hoạch, đến năm 2020, sản lượng tiêu của cả tỉnh khoảng 16.800 tấn, trong đó, sản lượng tiêu xuất khẩu 16.200 tấn, còn lại phục vụ nhu cầu tiêu dùng ở địa phương. Quy hoạch này được lập dựa trên nhu cầu thị trường, đặc biệt là về xuất khẩu; đồng thời căn cứ vào lợi thế về đất đai, nguồn nước, khí hậu... của từng địa phương cho phù hợp với loại cây trồng này. Tuy nhiên, đến thời điểm này diện tích tiêu của tỉnh đã là hơn 11.163 ha, vượt quy hoạch gần 3.000ha. Trong đó, nhiều xã không nằm trong quy hoạch cũng vẫn đang được nông dân mở rộng diện tích hồ tiêu.

Theo các chuyên gia ngành nông nghiệp, hồ tiêu là loại cây kén chọn đất và khá nhạy cảm với thời tiết khí hậu, do đó nếu trồng không đúng quy trình kỹ thuật, chăm sóc không tốt thì cây rất dễ bị nhiễm bệnh và chết hàng loạt. Trong khi người dân đua nhau trồng mới tiêu bằng mọi cách, trên mọi loại đất khi kinh nghiệm, kiến thức canh tác chưa đầy đủ sẽ tiềm ẩn lớn mối nguy hại. Bà Trần Thị Hiến cho biết thêm, ở những vùng không nằm trong quy hoạch, cây tiêu sẽ dễ bị dịch bệnh do không thích ứng được với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng.

Cùng với đó, việc tăng diện tích đồng nghĩa với sản lượng tiêu cũng sẽ tăng theo và việc nguồn cung vượt cầu, tất yếu giá cả sẽ sụt giảm - điều này ảnh hưởng rất lớn đến kinh tế của chính người nông dân. Đến thời điểm hiện nay, về các vùng nông thôn ở Bà Rịa-Vũng Tàu đâu đâu cũng thấy “nóng” về cây tiêu.

HOÀNG NHỊ
Theo Báo Tin tức/TTXVN
Trong tháng 9, giá thu mua hạt tiêu đen trong nước tiếp tục giảm so với tháng trước, đánh dấu tháng giảm thứ ba liên tiếp.

Theo Bộ NN&PTNT, tính trung bình trong tháng 9, giá thu mua tiêu đen xô tại các tỉnh trồng tiêu trọng điểm Gia Lai, Bà Rịa-Vũng Tàu, Đắk Lắk, Đồng Nai lần lượt ở mức 149.500 đ/kg, 152.900 đ/kg, 149.800 đ/kg, 150.800 đ/kg, giảm khoảng 7.000 đ/kg so với trung bình tháng trước.

Sự sụt giảm này bắt nguồn từ bối cảnh ảm đạm của thị trường thế giới, đồng thời do ảnh hưởng bởi thông tin dự báo sản lượng hồ tiêu Việt Nam năm tới ở mức cao.

Nhìn chung 9 tháng qua, thị trường hồ tiêu trong nước trải qua nhiều biến động, có lúc giảm mạnh xuống chỉ còn 130.000đ/kg vào thời điểm giữa tháng 3 rồi lại tăng mạnh trở lại mức trên dưới 170.000 đ/kg trong nửa đầu tháng 6 và liên tục giảm trong 3 tháng gần đây.

Đối với xuất khẩu, lũy kế 9 tháng đầu năm tổng lượng tiêu xuất khẩu ước đạt 146 nghìn tấn và 1,19 tỷ USD, tăng 31,5% về khối lượng và tăng 13,1% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015.

Giá tiêu xuất khẩu bình quân 8 tháng đầu năm đạt 8.141 USD/tấn, giảm 13,6% so với cùng kỳ năm 2015. Các thị trường xuất khẩu tiêu lớn nhất của Việt Nam trong 8 tháng đầu năm là Hoa Kỳ, các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống Nhất, Ấn Độ và Đức với gần 43% thị phần. Các thị trường có giá trị xuất khẩu tăng mạnh là Philippines (gấp 3,34 lần), Pakistan (gấp 3,03 lần), Hoa Kỳ (tăng 37,9%), Tây Ban Nha (tăng 14,2%), Ấn Độ (tăng 13,5%) và Ai Cập (tăng 13,5%).

Nguyễn Thanh
Theo Báo Hải Quan

23/9/16

Thu hoạch hồ tiêu ở xã Ia Hrú, huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai. (Ảnh: Sỹ Huynh/TTXVN)
Hiện nay, giá tiêu đen giảm xuống chỉ còn 150.000 đồng/kg, nhưng vẫn ở mức cao so với các loại nông sản chủ lực khác ở Tây Nguyên trong mùa mưa này.

Do đó, đồng bào các dân tộc Tây Nguyên vẫn bất chấp khuyến cáo của các ngành chức năng, tiếp tục ồ ạt mở rộng hàng nghìn hécta cây hồ tiêu không theo quy hoạch. Thậm chí, nhiều địa phương ở vùng Tây Nguyên không kiểm soát được việc trồng hồ tiêu tự phát của đồng bào các dân tộc trên địa bàn.

Theo Thường trực Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, trong 5 năm trở lại đây, đồng bào các dân tộc ở các tỉnh Tây Nguyên đã tự ý mở rộng hàng chục nghìn hécta cây hồ tiêu, nhất là các tỉnh như Đắk Lắk, Gia Lai, Đắk Nông. Đồng bào đã chủ động chuyển đổi đất vườn tạp, vườn càphê, điều, cao su kém hiệu quả kinh tế sang trồng cây hồ tiêu.

Theo quy hoạch của tỉnh Đắk Lắk, đến năm 2020, cả tỉnh sẽ có 15.000ha cây hồ tiêu. Thế nhưng, tới thời điểm hiện tại, tỉnh Đắk Lắk đã có trên 25.500ha; trong đó, diện tích cho thu hoạch lên tới 11.642ha; những diện tích còn lại đang trong thời kỳ kiến thiết cơ bản. Đây cũng là một trong những địa phương có diện tích cây hồ tiêu lớn nhất cả nước.

Thực tế, việc phát triển cây hồ tiêu ở Tây Nguyên đã góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn, nâng cao đời sống cho đồng bào các dân tộc, nhất là nhiều địa bàn vùng sâu, vùng xa. Nhiều nông hộ trồng tiêu ở các xã thuộc huyện Cư Kuin, Ea H’Leo, Cư M’gar (Đắk Lắk), Đắk Lấp, Đắk Min, Cư Jut (Đắk Nông), Chư Sê, Chư Pứh (Gia Lai)... mỗi năm sau khi trừ các khoản chi phí còn thu lãi từ 500 triệu đến cả hàng tỷ đồng.

Tuy nhiên, việc đua nhau trồng tiêu bất chấp khuyến cáo của các địa phương, các ngành chức năng đã kéo theo nhiều hệ lụy gây thiệt hại lớn cho đồng bào các dân tộc. Nghiêm trọng nhất là đồng bào tự ý đưa cây tiêu vào trồng ở những vùng đất không thích hợp, đất dễ bị ngập úng, không cải tạo đất, chưa xử lý mầm bệnh, sử dụng giống tiêu không rõ ràng nguồn gốc; sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật bừa bãi dẫn đến dịch bệnh trên cây tiêu phát triển mạnh, nhất là các loại nấm bệnh chết nhanh, chết chậm làm nhiều vườn tiêu chết hàng loạt...

Mới đây, tại xã vùng sâu Ea Riêng, huyện M’Đắk (Đắk Lắk) nhiều vườn tiêu đang trong thời kỳ kinh doanh cho thu hoạch của các nông hộ ở các thôn 10, thôn 11, thôn 18... bị nhiễm bệnh chết nhanh, chết chậm và bị chết hàng loạt; hộ thấp nhất bị thiệt hại 100 trụ, hộ nhiều nhất là gần 400 trụ tiêu. Thế nhưng, các vườn tiêu mới chết xong, đồng bào vẫn không xử lý đất mà tiếp tục trồng lại tiêu, khó tránh khỏi nguy cơ cây hồ tiêu chết hàng loạt.

Hồ tiêu là loại cây công nghiệp dài ngày, vốn đầu tư lớn, chu kỳ kinh doanh kéo dài hàng chục năm. Thường trực Ban Chỉ đạo Tây Nguyên đã đề nghị các tỉnh Tây Nguyên cần tiến hành quy hoạch cụ thể lại các vùng chuyên canh cây tiêu, kiểm soát chặt chẽ việc sản xuất, cung ứng giống tiêu; đồng thời, các ngành chức năng cần có hướng dẫn cho đông đảo đồng bào các dân tộc quy trình kỹ thuật thâm canh, chăm sóc, thu hoạch, chế biến... đối với cây hồ tiêu, góp phần phát triển cây hồ tiêu bền vững trên địa bàn.

Hiện nay, các tỉnh Tây Nguyên có trên 53.500ha cây hồ tiêu; trong đó, tập trung nhiều nhất là Đắk Lắk, Gia Lai, Đắk Nông, Lâm Đồng./.

QUANG HUY
Theo TTXVN/Vietnam+
Tính đến hết tháng 8, Việt Nam xuất khẩu được 136.973 tấn Hồ tiêu các loại (vượt tổng lượng xuất khẩu cả năm 2015: 133.569 tấn), bao gồm 121.807 tấn tiêu đen và 15.166 tấn tiêu trắng. Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 1 tỷ 113,62 triệu USD, tiêu đen đạt 941,63 triệu USD, tiêu trắng đạt 171,99 triệu USD. So với cùng kỳ 2015, lượng xuất khẩu tăng 32.098 tấn tương đương 30,61%, giá trị tăng 12,83%. Giá xuất khẩu bình quân tiêu đen 8 tháng đạt 7.731 USD/tấn, tiêu trắng đạt 11.340 USD/tấn, so với cùng kỳ 2015, giá xuất khẩu tiêu đen giảm 1.201 USD, tiêu trắng giảm 1.452 USD.

Theo VPA

5/9/16

19 năm gắn bó với cây tiêu, ông Nguyễn Thế Tài (ở khu vực đèo Nhông, xã Mỹ Trinh, huyện Phù Mỹ) khẳng định, cây tiêu thích hợp với vùng đất núi khô cằn, sỏi đá trên đỉnh đèo Nhông, giá trị mang lại cao hơn so với các loại cây trồng khác tại đây.
Ông Tài chăm sóc vườn tiêu. Ảnh: XUÂN LỘC
Ông Tài cho biết, từ 300 trụ tiêu, nhiều năm qua, ông đã thu hoạch trên dưới 1 tấn tiêu/năm, thu về 200 - 300 triệu đồng. Riêng năm 2016, từ 100 gốc tiêu 20 tuổi đạt sản lượng 5 tạ hạt, bán với giá bình quân 230 ngàn đồng/kg, ông Tài thu hơn 115 triệu đồng; 300 gốc tiêu chưa tròn 2 tuổi cũng đã bắt đầu cho trái bói đầu mùa.

“Tui ở thị trấn Phù Mỹ, đến đèo Nhông lập nghiệp từ năm 1993; năm 1996 bắt đầu trồng tiêu trên chân đất sỏi đá này. Mới đầu, nhiều người hàng xóm cũng bàn ra, vì họ cho rằng, tiêu không thể sống và cho hạt được trên đỉnh đèo đầy nắng gió và khô khốc quanh năm này. Nhưng qua những gì tìm hiểu trong sách vở và học hỏi ở những người thân trồng tiêu ở Tây Nguyên, tui tin tưởng và quyết tâm làm”- ông Tài chia sẻ.

Gặp nhiều khó khăn nhưng ông Tài vẫn cố gắng đầu tư chăm sóc vườn tiêu ổn định ở mức 300 gốc. Ông đào giếng khai nguồn nước tưới; thường xuyên theo dõi, xử lý khi dây tiêu xảy ra sâu bệnh.

Ông Tài đúc kết: Trồng tiêu khó, nhất là trồng trên loại đất cằn cỗi, bạc màu như ở đây, nhưng điều đó không có nghĩa là không trồng được. Điều kiện đầu tiên là phải có nước giữ ẩm trong từng gốc tiêu; thường xuyên theo dõi sự phát triển của cây để kịp thời phát hiện sâu bệnh và xử lý ngay. Đồng thời, phải tích cực bón phân cân đối ở từng thời điểm phù hợp, nhất là khi tiêu chuẩn bị tượng hạt, để tiêu rụng ít, hạt lớn, chắc, cho năng suất cao.

Ông Tài khẳng định, trồng tiêu đầu tư nhiều ở thời điểm lập vườn, mua giống, làm trụ; còn mấy năm sau, cứ đến chu kỳ đầu tư chăm sóc, không tốn kém bao nhiêu, thu nhập năm sau thường nhiều hơn năm trước.

XUÂN LỘC
Theo Báo Bình Định

6/8/16

Với những vườn hồ tiêu ở Tây Nguyên hiện nay, các loại dịch hại như tuyến trùng, bệnh chết chậm, chết nhanh, bệnh thán thư... làm cây chết hàng loạt, gây thiệt hại nghiêm trọng cho nhà vườn.
Ông Lê Văn Cảnh (áo đỏ) bên vườn hồ tiêu của mình áp dụng "Giải pháp quản lý dịch hại trên cây hồ tiêu"
Trước tình trạng trên, Trung tâm Nghiên cứu và phát triển hồ tiêu Gia Lai (thuộc Viện Khoa học Nông lâm nghiệp Tây Nguyên-WASI,) phối hợp với Cty Syngenta Việt Nam và Cty Khử trùng Việt Nam (VFC) đã đưa giải pháp quản lý dịch hại trên cây hồ tiêu vào các nhà vườn. Sau 3 năm thực hiện, các vườn tiêu đã cho kết quả khả quan.

Giải pháp quản lý dịch hại trên cây hồ tiêu đảm bảo năng suất, chất lượng và canh tác bền vững thông qua các mô hình áp dụng công nghệ Tervigo quản lý tuyến trùng, công nghệ Lok và Flo quản lý hiệu quả bệnh thán thư, giúp cây xanh lá, công nghệ Ridomil Gold hoặc giải pháp quản lý dịch bệnh tổng hợp cho toàn bộ bệnh hại chính. Giải pháp được áp dụng với gần 50 hộ nông dân của 3 tỉnh: Gia Lai, Đắk Lắk và Đắk Nông.

Vườn tiêu nhà ông Lê Văn Cảnh ở thôn Tam Điệp (xã H'Neng, huyện Đak Đoa- Gia Lai) có 1.000 trụ. Trước đây, vườn tiêu thường xuyên bị dịch bệnh, cho năng suất thấp. Năm 2013, ông áp dụng giải pháp quản lý dịch hại trên cây hồ tiêu. Đến nay, vườn tiêu đã cho thu hoạch 3,7 kg/trụ tiêu, tăng gần gấp đôi sản lượng so với khi chưa áp dụng giải pháp này.

Ông Cảnh cho biết: “Tôi thường xuyên theo dõi chặt chẽ diễn biến dịch bệnh trên vườn tiêu nhà mình, từ đó phát hiện sâu bệnh để phòng trừ kịp thời và hiệu quả. Bên cạnh đó, việc áp dụng biện pháp phòng trừ dịch hại bằng các loại thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc sinh học là hướng phát triển cây trồng bền vững, giảm thiệt hại cho vườn cây. Giải pháp của Syngenta và VFC đã góp phần giải quết được bệnh chết nhanh chết chậm, từ đó tăng chất lượng vườn cây, tăng năng suất, hiệu quả sản xuất và hạn chế rủi ro chết vườn hàng loạt”.

Tại các tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông, giải pháp quản lý dịch hại trên cây hồ tiêu cũng cho hiệu quả cao. Nông dân Nguyễn Xuân Văn (huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông) chia sẻ: “Ba năm trước, tôi từng nghĩ đến việc bỏ luôn vườn tiêu vì dịch hại hoành hành. Nhưng từ khi được tiếp cận, áp dụng giải pháp quản lý dịch hại hồ tiêu, vườn cây của tôi đã xanh tươi trở lại, cho năng suất cao. Qua tìm hiểu, tôi biết hiệu quả đã được thẩm định bởi cơ quan chuyên môn nên càng yên tâm hơn để áp dụng lâu dài”.

Mới đây, trong buổi hội thảo đầu bờ tại huyện Đak Đoa, các nông dân của 3 tỉnh Gia Lai, Đắk Lắk và Đắk Nông đã được tham quan, chia sẻ những mô hình áp dụng giải pháp quản lý dịch hại trên cây hồ tiêu hiệu quả.

Ông Phạm Tỷ (huyện Chư Sê, Gia Lai) vui vẻ nói: “Tôi trồng tiêu nhiều năm rồi, nhưng năm nào cũng đau đầu vì chi phí đầu vào và công lao động thì cứ tăng, chất lượng hạt tiêu thì bấp bênh, cây không khỏe mạnh. Thấy mô hình áp dụng giải pháp quản lý dịch hại trên cây hồ tiêu này cho hiệu quả cao, tôi sẽ áp dụng cho vườn tiêu 1.200 trụ của nhà mình”.

Trước những thách thức từ việc canh tác không bền vững như việc độc canh, thiếu thảm phủ, sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật theo kinh nghiệm từng nông hộ, áp lực dịch bệnh ngày càng tăng... thì việc áp dụng "Giải pháp quản lý dịch hại trên cây hồ tiêu" đã mang lại hiệu quả sản xuất cho nông dân từ việc chi phí đầu vào hợp lý, năng suất và chất lượng hạt tiêu tăng lên do quản lý hiệu quả tuyến trùng và thán thư, giúp giảm tỷ lệ chết nhanh chết chậm...

TS Tôn Nữ Tuấn Nam, nguyên chuyên viên nghiên cứu Viện KHKT Nông lâm nghiệp Tây Nguyên cho biết: "Giải pháp quản lý dịch hại trên cây hồ tiêu đã được thực hiện trên nhiều mô hình vườn cây của người nông dân. Từ đó tôi đã đối chứng thực tế. Tôi và nông dân đều nhận thấy rằng việc quản lý bệnh đạt hiệu quả, các dịch bệnh đều giảm hẳn, cây xanh tươi, cho năng suất cao. Việc quản lý bệnh được chặt chẽ qua giải pháp phòng bệnh có hiệu quả và được đông đảo người trồng tiêu chấp nhận"
PV
Theo nongnghiep.vn
Mặt hàng hồ tiêu lại tiếp tục “rớt” giá, hiện nông dân bán ra chỉ khoảng 153 ngàn đồng/kg, giảm rất mạnh so với giá ở thời điểm “sốt” năm ngoái là hơn 200 ngàn đồng/kg. Giá mặt hàng này có khả năng tiếp tục hạ nhiệt vì hiện nhiều nước đang vào vụ thu hoạch. Theo Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam, hiện diện tích tiêu của cả nước đạt 100 ngàn hécta, cao gấp 2 lần diện tích theo quy hoạch. Không chỉ hồ tiêu Việt Nam đang tăng trưởng nóng mà diện tích tiêu của nhiều nước trên thế giới cũng tăng lên nhanh chóng do tác động của tình trạng mặt hàng này liên tục “sốt” giá kéo dài từ vài năm trở lại đây. Thị trường hồ tiêu đang có dấu hiệu bão hòa, rớt giá và ngành hồ tiêu có thể còn tiếp tục gặp khó khăn trong trung và dài hạn do tình trạng tăng trường nóng, mất kiểm soát này. Người Nông Thôn (NNT) tui đem nội dung này trao đổi với bà con.

- Theo NNT tui được biết, tính đến cuối tháng 7-2016, xuất khẩu tiêu cả nước đạt 122 ngàn tấn, tăng 26% về sản lượng so với cùng kỳ năm ngoái, nhưng giá tiêu xuất khẩu bình quân lại giảm hơn 13% so với năm 2015. Nguyên nhân bề nổi tiêu giảm giá là do một số nước trên thế giới đang vào vụ thu hoạch, nhưng cái gốc vẫn là do tình trạng tăng “sốc” về diện tích trồng tiêu trong những năm qua.

- Nông dân chúng tôi cũng rất lo lắng vì vụ thu hoạch vừa qua, tiêu mất mùa nhưng giá tiêu vẫn giảm mạnh. Nhiều nông dân chọn cách trữ tiêu chờ giá mặt hàng này tăng lên như quy luật nhiều năm trước, nhưng từ đầu năm đến nay giá mặt hàng này càng ngày càng giảm khiến nông dân chúng tôi đứng ngồi không yên. 

- Nhiều năm trở lại đây, trồng tiêu cho lợi nhuận rất cao nên người trồng tiêu thường chọn cách trữ hàng chờ thời điểm giá tốt mới bán. Mặt trái của việc trữ hàng này là khiến cho thị trường tiêu không ổn định. Mặt khác, một nghịch lý hiện nay, Việt Nam tuy là nước đứng đầu thế giới về sản lượng nhưng vẫn phải nhập hồ tiêu chất lượng cao để xuất khẩu đi các thị trường khó tính. Vì nông dân ta chỉ lo chạy theo sản lượng, lạm dụng phân bón, thuốc trừ sâu nhằm tăng năng suất nên gặp rất nhiều vấn đề về mặt chất lượng. Đây là nguyên nhân khiến giá tiêu Việt Nam luôn đứng ở mức thấp so với mặt bằng chung của thị trường thế giới. Đã đến lúc ngành hồ tiêu trong nước phải dừng lại việc chạy đua theo sản lượng, quan tâm đến việc cạnh tranh bằng nâng cao về chất lượng.
NGƯỜI NÔNG THÔN
Theo Báo Đồng Nai
Khác với mọi năm “được mùa mất giá, mất mùa được giá” thì năm nay người dân trồng tiêu ở Quảng Trị lại phải đối mặt với nỗi lo mất mùa, mất luôn cả giá.
Nhà vườn ở xã Gio An, huyện Gio Linh thu hoạch hồ tiêu
Cây hồ tiêu là “mỏ vàng đen” ở miền tây huyện Gio Linh, Quảng Trị, được đánh giá có chất lượng cao nhất nước với hạt chắc, vị thơm và cay. Tuy vậy, mùa thu hoạch hồ tiêu năm nay người dân gặp nhiều khó khăn...

 Mất mùa, mất giá 

Ông Lâm Quang Hoàng, chủ hộ trồng tiêu ở làng Gia Bình, xã Gio An cho biết do năm nay mất mùa nên vườn hồ tiêu của gia đình ông có diện tích gần 5 sào cho thu hoạch được khoảng 250 kg tiêu xanh, tương đương với khoảng 100 kg hạt tiêu khô. Nếu bán thời điểm hiện tại sẽ thu về được 16 - 17 triệu đồng. Cũng diện tích ấy, năm trước hồ tiêu được mùa, gia đình ông thu được đến 500 kg tiêu khô, bán được giá 210.000 đồng/kg, tổng số tiền thu về hơn 100 triệu đồng.

“Vua hồ tiêu” của xã Gio An, ông Lê Phước Hoạch tâm sự: “Năm nay hồ tiêu mất mùa, tán thưa, nhiều cây cho rất ít buồng, nếu có buồng thì cho rất ít hạt nên công việc thu hoạch rất vất vả”.

 Ông Hoạch có vườn hồ tiêu rộng 1ha, trong đó khoảng một nửa diện tích với 500 cây đã đến tuổi thu hoạch. Mỗi năm bình quân ông Hoạch thu về đến 1 tấn hạt tiêu khô. Ông là người trồng tiêu nhiều nhất xã Gio An nên người ta thường gọi đùa là “vua hồ tiêu”.

 Tuy vậy, do mất mùa nên năm nay vườn hồ tiêu của ông chỉ thu về được 150 kg hạt tiêu khô. Tiêu thưa buồng, thưa hạt nên lại tốn công thu hoạch. Mỗi ngày công thu hoạch hồ tiêu có giá trị 150.000 đồng nhưng vẫn rất khó để thuê được lao động. Vì thu hoạch hồ tiêu phải leo cao, vừa nhọc nhằn vừa nguy hiểm nên ít người muốn đi làm. Ông Hoạch cho biết dù khó khăn nhưng trồng hồ tiêu cho thu nhập gấp nhiều lần làm lúa.

Nhiều chủ vườn cho biết, nguyên nhân năm nay hồ tiêu mất mùa là do đợt rét đậm, rét hại cuối năm 2015 có thời gian quá dài, nhiệt độ xuống thấp dưới 12 độ C đúng thời điểm cây trổ buồng non, không chịu được rét nên buồng bị rụng, còn buồng có hạt thì queo quắt khiến hạt non không sinh trưởng nổi làm năng suất đến kỳ thu hoạch giảm mạnh.

Khác với mọi năm “được mùa mất giá, mất mùa được giá” thì năm nay người dân trồng tiêu ở Quảng Trị lại phải đối mặt với nỗi lo mất mùa, mất luôn cả giá. Bà Nguyễn Thị Hà, chủ thu mua hồ tiêu hàng năm tại xã Gio An cho biết, hiện tại giá mỗi kg hạt tiêu khô đang ở vào tầm 160.000 - 170.000 đồng/kg. Năm nay, mất mùa nhưng giá tiêu khô lại thấp hơn các năm trước từ 20.000 - 30.000 đồng, thậm chí là thấp hơn 50.000 đồng/kg. Các nhà buôn và người nông dân vừa tiên liệu, vừa hy vọng giá tiêu sẽ tăng lên ở thời điểm vào cuối mùa. 

Vẫn là cây trồng số 1 

Ông Lê Phước Hiếu, Phó Chủ tịch UBND xã Gio An cho biết, toàn xã đang có gần 100ha hồ tiêu và đang khuyến khích người dân phát triển thêm 10ha tiêu mỗi năm. Dự kiến đến năm 2020 đưa tổng diện tích cây hồ tiêu xã Gio An đạt 150ha.
Nhờ có chất lượng thơm cay nổi tiếng, nên hồ tiêu Quảng Trị rất có tiềm năng xuất khẩu (Ảnh minh họa)...
 Miền tây huyện Gio Linh bao gồm 8 xã Gio An, Gio Bình, Gio Sơn, Gio Hoà, Linh Thượng, Linh Hải, Hải Thái, Vĩnh Trường đã có diện tích 1.000ha hồ tiêu. Dù giá cả năm nay có hạ thấp chút ít nhưng thời gian qua cây hồ tiêu đã giúp nhiều hộ gia đình thoát nghèo, phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống.

Ông Lê Văn Viễn, Trưởng phòng NN-PTNT huyện Gio Linh cho biết, về thương hiệu và giá trị thì hạt tiêu của vùng miền tây Gio Linh được đánh giá là có chất lượng tốt nhất nước ta (cùng với các vùng trồng tiêu khác như vùng Cùa (Cam Lộ), Khe Sanh (Hướng Hoá) và huyện Vĩnh Linh của Quảng Trị do hạt chắc, thơm và cay nên giá hạt tiêu ở đây thường ở mức cao hơn so với những nơi khác, được thương lái khắp nơi tìm về thu mua xuất khẩu.

Nhờ có chất lượng thơm cay nổi tiếng, nên hồ tiêu Quảng Trị rất có tiềm năng xuất khẩu vào những thị trường đòi hỏi chất lượng cao. Nếu được tổ chức tốt việc xây dựng chỉ dẫn xuất xứ, địa lý, xây dựng thương hiệu, tiếp thị, tạo kênh phân phối bài bản, hồ tiêu Quảng Trị thực sự sẽ đạt giá trị cao trên thị trường.

Tuy nhiên, cây hồ tiêu ở đây thường có sản lượng không cao. Nguyên nhân là do hồ tiêu được người dân trồng quảng canh trong vườn nhà và chăm sóc theo truyền thống, không dùng thuốc kích thích sinh trưởng, không sử dụng thuốc trừ sâu, nhưng cái được rất lớn vì đây là vùng tiêu sạch nên bạn hàng rất thích.

Cũng vì chưa được đầu tư thâm canh tốt nên cây hồ tiêu vẫn chưa thể đạt năng suất tối đa, mới chỉ ở mức từ 1,1 - 1,3 tấn/ha. “Nhưng so sánh với các cây trồng khác thì không có cây nào mang lại giá trị kinh tế ổn định hơn cây hồ tiêu trên cùng diện tích đất”, ông Lê Văn Viễn khẳng định.

Ông Lê Quang Chiến, Bí thư Huyện uỷ Gio Linh cho biết, so với tiềm năng đất đai sẵn có thì diện tích cây hồ tiêu toàn miền tây Gio Linh ở mức 1.000ha là đang khiêm tốn. Nghị Quyết 03 của Huyện ủy cũng chỉ rõ phát triển mạnh cây hồ tiêu để thúc đẩy miền tây Gio Linh thành vùng kinh tế tiềm năng của huyện.

Lợi thế của miền tây Gio Linh có điều kiện phát triển cây hồ tiêu với đất đỏ bazan màu mỡ, được phân bố tập trung ở địa hình bằng phẳng, gần khu dân cư. Vì vậy huyện có chủ trương hỗ trợ người dân SX, đưa hồ tiêu trở thành cây trồng chủ lực và phát triển bền vững. Cố gắng đến năm 2020 toàn huyện đạt diện tích 1.200ha hồ tiêu chất lượng cao.

Huyện sẽ có chính sách hỗ trợ về giống cây, phân bón, thuốc trừ sâu cũng như kỹ thuật canh tác cho nông dân, góp phần tăng năng suất, chất lượng loại cây được xem là “vàng đen” của miền đất này.

Sở NN-PTNT Quảng Trị cho biết, đến năm 2016 tổng diện tích hồ tiêu của tỉnh đạt 2.274ha, trong đó diện tích tiêu kinh doanh đạt 1.800ha, cho sản lượng 2.160 tấn, năng suất bình quân đạt 1,2 tấn/ha. Tuy nhiên, năm nay hồ tiêu mất mùa nên năng suất thu về chỉ bằng 1/5 của vụ trước. Theo quy hoạch đến năm 2020, diện tích hồ tiêu Quảng Trị sẽ đạt 2.650ha. Bộ KH-CN cũng đã có quyết định số 1399 về việc đăng bạ tên gọi xuất xứ hàng hóa cho sản phẩm hồ tiêu Quảng Trị.

Quang Bửu
Theo nongnghiep.vn

11/5/16

Hồ tiêu, Ảnh: T.L
Cho tới thời điểm này, Tổ chức Lương Nông Liên hiệp quốc (FAO) vẫn chưa công bố các số liệu thống kê về diện tích, năng suất và sản lượng hồ tiêu thế giới hai năm gần đây. Tuy nhiên, qua các số liệu thống kê về thương mại mặt hàng này của Trung tâm Thương mại quốc tế (ITC) vừa công bố, có căn cứ để suy đoán rằng, nguyên nhân sốt nóng giá hồ tiêu thế giới trong năm 2015 bắt nguồn từ nước ta, và do vậy, việc giá hồ tiêu xuất khẩu trong những tháng qua “rơi tự do” là do “gậy ông đập lưng ông”.

“Già néo đứt dây”?

Việc giá hồ tiêu thế giới trong năm 2015 cao kỷ lục, tới 9.438 đô la Mỹ/tấn bắt nguồn từ tình trạng cung không đủ cầu của thị trường thế giới. Chính chúng ta là tác nhân gây ra tình trạng này.

Các số liệu thống kê có lẽ chưa đầy đủ của ITC và Việt Nam cho thấy, tổng khối lượng hồ tiêu xuất khẩu trên thị trường thế giới trong năm 2015 chỉ đạt gần 391.000 tấn, giảm 14.400 tấn (3,6%) so với năm 2014. Trong khi tổng khối lượng hồ tiêu xuất khẩu của 39 quốc gia sản xuất mặt hàng này đạt gần 166.000 tấn, tăng gần 26.000 tấn (18,4%) so với năm 2014 thì khối lượng xuất khẩu của nước ta, quốc gia trở thành “vựa” hồ tiêu lớn nhất của thế giới từ năm 2007 trở lại đây, đã giảm gần 23.000 tấn (14,6%).

Những quốc gia không sản xuất hồ tiêu, nhưng lâu nay vẫn thường xuyên chiếm trên dưới 20% tổng khối lượng hồ tiêu xuất khẩu trên thị trường thế giới, có phải là “đồng phạm” hay không? Các số liệu thống kê của ITC cho thấy, trong năm 2015, tổng khối lượng hồ tiêu xuất khẩu của nhóm các nước này giảm 17.600 tấn (16,0%) so với năm 2014. Do vậy, đã góp phần vào tình trạng cung nhỏ hơn cầu trên thị trường hồ tiêu thế giới.

Vì sao trong năm 2015 lại có tình trạng giảm cung ở những nước này và nước ta?

Theo số liệu thống kê của ITC, trong năm 2014, nhóm các nước này đã tăng đột biến khối lượng hồ tiêu xuất khẩu của mình thêm 20.700 tấn và nâng thị phần lên kỷ lục 27,2%. Nhiều khả năng các quốc gia chuyên nhập hồ tiêu để xuất kiếm lời này đã “vét” kho hồ tiêu dự trữ để xuất khẩu trong năm 2014, cho nên buộc phải giảm khối lượng xuất khẩu trong năm 2015, cho dù giá vẫn tiếp tục tăng mạnh.

Số liệu thống kê cho thấy trong năm 2015, sản lượng hồ tiêu nước ta đạt kỷ lục với gần 169.000 tấn, tăng hơn 17.000 tấn (11,3%) so với năm 2014. Đối chiếu với khối lượng đã xuất khẩu trong năm 2015, có thể thấy chúng ta đã “găm” 40.000 tấn hồ tiêu lại không xuất khẩu ngay.
Nhiều khả năng Việt Nam sẽ là “thủ phạm chính” đẩy thị trường “gia vị vua” này rơi vào tình trạng bão hòa, giá hồ tiêu xuất khẩu của thế giới sẽ giảm mạnh, có thể dẫn đến kim ngạch xuất khẩu hồ tiêu của ta giảm.

Đến nay, giá trị của 40.000 tấn hồ tiêu này (nếu tính theo giá xuất khẩu bình quân 9.507 đô la Mỹ/tấn trong năm 2015), đã “co lại” mất khoảng 75 triệu đô la Mỹ do giá xuất khẩu đã liên tục giảm trong năm tháng trở lại đây.

Không những vậy, tuy chưa hoàn toàn rõ ràng, nhưng cũng đã có dấu hiệu cho thấy, chúng ta đang bán tháo hồ tiêu ra thị trường thế giới.

Thứ nhất, sau hai tháng đầu năm tiết giảm nhẹ so với cùng kỳ năm 2015, tháng 3 vừa qua khối lượng hồ tiêu xuất khẩu đã tăng đột biến 46,6% và bằng kỷ lục của cùng kỳ năm 2014.

Thứ hai, theo các số liệu thống kê chưa đầy đủ của ITC, trong khi giá hồ tiêu hạt bình quân trên thị trường thế giới chỉ giảm nhẹ từ 8.450 đô la Mỹ/tấn vào tháng 10 năm ngoái xuống còn 8.360 đô la Mỹ/tấn trong tháng 3 vừa qua, tức là chỉ giảm 91 đô la Mỹ/tấn (0,6%) thì giá hồ tiêu bình quân của nước ta đã “rơi tự do” tới 2.379 đô la Mỹ/tấn (25,9%).

Nếu như từ tháng 11-2015 trở về trước, với việc găm hàng lại, làm cho thị trường hồ tiêu thế giới khan hàng, chúng ta là “đầu tàu” kéo giá hồ tiêu thế giới lên, thì nay, chúng ta đang là “đầu tàu” kéo giá hồ tiêu thế giới xuống.

Với việc có tới hơn 40.000 tấn hồ tiêu tồn kho vào đầu năm nay, bằng 10% tổng khối lượng hồ tiêu buôn bán trên thị trường thế giới cả năm vừa qua, giá hồ tiêu xuất khẩu của nước ta có nhiều khả năng sẽ còn tiếp tục giảm trong ngắn hạn.

Kịch bản nào trong những năm tới ?

Với việc diện tích hồ tiêu nước ta đã liên tục tăng mạnh từ năm 2012 đến nay (năm 2013 tăng tới 9.000 héc ta và đã bắt đầu cho thu hoạch), thì từ nay cho đến năm 2019, bình quân mỗi năm Việt Nam sẽ cung cấp thêm cho thị trường thế giới khoảng 22.000 tấn.

Cũng không thể không kể đến khả năng diện tích và sản lượng của 39 nước sản xuất hồ tiêu khác cũng đã tăng do tác động của cơn sốt nóng giá thế giới kéo dài từ năm 2011 đến nay, mà việc các nước này đã tăng gần 26.000 tấn hồ tiêu xuất khẩu trong năm 2015 mới chỉ là bước khởi động đầu tiên.

Trong điều kiện nguồn cung trên thị trường hồ tiêu thế giới không còn “giậm chân tại chỗ”, thậm chí giảm như trong giai đoạn 2007-2012, mà ngược lại tăng mạnh như vậy, chắc chắn giá hồ tiêu xuất khẩu sẽ còn giảm trong trung hạn.

Thực tế cho thấy quá trình giảm giá hồ tiêu thế giới luôn diễn ra liên tiếp trong nhiều năm và mức giảm cũng rất lớn, thậm chí chỉ còn hơn một phần ba so với mức giá đỉnh ở thời điểm sốt nóng liền kề trước đó.

Tất cả những điều nói trên có nghĩa là, rất có thể hiện tại và một vài năm tới vẫn còn là những năm của “nửa vòng xoáy trồng”, còn những năm cuối thập kỷ này và đầu thập kỷ tới sẽ là “nửa vòng xoáy chặt” của hồ tiêu của thế giới.

Hiện vẫn còn rất sớm để nói đến chuyện “nửa vòng xoáy chặt” hồ tiêu sẽ diễn ra ở những quốc gia nào trên thế giới, nhưng theo quy luật cạnh tranh, với năng suất cao gấp 2,2-3,8 lần so với năng suất bình quân của phần còn lại trên toàn thế giới, rõ ràng cây hồ tiêu Việt Nam vẫn có thể trụ vững.

Hai quốc gia hiện vẫn còn chiếm hơn 70% diện tích hồ tiêu thế giới là Indonesia và Ấn Độ chỉ có năng suất bằng một phần tư và một phần năm của nước ta, cho nên có nhiều khả năng đó sẽ tiếp tục là các quốc gia đi tiên phong trong việc xóa bỏ diện tích trồng loại cây này.

Do vậy, thay vì chiếm hơn 40% như hiện nay, chắc chắn thị phần của Việt Nam trên thị trường hồ tiêu thế giới sẽ tăng, thậm chí có thể tăng mạnh và vượt qua ngưỡng 50% ngay trong một vài năm tới.

Nói tóm lại, với việc tăng “sốc” diện tích hồ tiêu trong mấy năm gần đây và sẽ tăng “sốc” khối lượng hồ tiêu trong mấy năm tới, nhiều khả năng Việt Nam sẽ là “thủ phạm chính” đẩy thị trường “gia vị vua” thế giới rơi vào tình trạng bão hòa, giá hồ tiêu xuất khẩu của thế giới giảm mạnh, có thể dẫn đến kim ngạch xuất khẩu hồ tiêu của ta giảm, cho dù ta có tăng mạnh khối lượng xuất khẩu.

Cho dù “gậy ông đập lưng ông” như vậy, nhưng cây hồ tiêu Việt Nam vẫn có thể trụ vững. Có điều, siêu lợi nhuận như trước đây không còn.

Nguyễn Đình Bích
Theo TBKTSG
Bộ Nông nghiệp - phát triển nông thôn (NN-PTNT) vừa ban hành kế hoạch hành động nhằm gấp rút tăng cường kiểm soát và cải thiện chất lượng hồ tiêu xuất khẩu của Việt Nam.

Trong 5 nội dung của kế hoạch hành động sẽ tập trung triển khai trong năm 2016, đáng chú ý có việc phối hợp với Bộ Y tế xây dựng các văn bản pháp luật quy định dư lượng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) có tính đến mức MRL (dư lượng tối đa cho phép) của nước nhập khẩu; tổ chức đào tạo tập huấn cho người sử dụng thuốc BVTV và nâng cấp phòng thí nghiệm tại Việt Nam theo chuẩn  quốc tế.

Trước mắt, Cục BVTV sẽ làm việc với Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam để cùng xây dựng phương án kiểm tra, đánh giá việc sử dụng thuốc BVTV trên hồ tiêu ở các khâu trên đồng ruộng và sau thu hoạch, bảo quản, phân phối để có hướng quản lý phù hợp.

Ðây là kế hoạch hành động của Bộ NN-PTNT thực hiện cam kết với ngành Hồ tiêu Việt Nam và với các nhà nhập khẩu hồ tiêu quốc tế tại cuộc họp cuối năm 2015.

K.T
Theo Báo lao động Đồng nai

6/5/16

Hội nghị thường niên lần thứ 5/2016 vừa diễn ra tại Kalimanta (Indonesia), Ủy ban Nghiên cứu - Phát triển của Hiệp hội Hồ tiêu quốc tế (IPC) đã thống nhất một số nội dung liên quan tới sản xuất hồ tiêu trong thời gian tới. Dự hội nghị có đại diện Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Sri Lanka và Việt Nam (vắng Brazil).

IPC thống nhất về quy trình kỹ thuật hồ tiêu của mỗi quốc gia (giống, hom giống, phân bón, trụ tiêu sống). Quy trình kỹ thuật được thống nhất cho thấy các nước sản xuất hồ tiêu cần phải thay đổi trong quản lý chất lượng trong sản xuất. Các nước cũng đã trình bày xu thế canh tác hồ tiêu trong thời gian tới, cụ thể: Indonesia nhấn mạnh đến kỹ thuật canh tác bón phân cho tiêu. Malaysia nhấn mạnh đến giống tiêu lai mới phục vụ chế biến tiêu trắng. Sri Lanka nhấn mạnh đến kỹ thuật sản xuất hom tiêu giống khỏe. Việt Nam và Ấn Độ nhấn mạnh đến các biện pháp quản lý sâu bệnh hại bằng “biocontrol” (đấu tranh sinh học thông qua các chế phẩm được phân lập từ nấm, vi khuẩn đối kháng với sâu bệnh).

Năm 1990, Việt Nam chỉ đóng góp 4% sản lượng tiêu thế giới nhưng đến năm 2000 là 14%, năm 2003 là 25%. Năm 2015, Việt Nam đóng góp 32% sản lượng hồ tiêu thế giới. Tiếp đó là Ấn Độ 18%, Indonesia 16%, Malaysia 7%, Sri Lanka 6% và phần còn lại là sản lượng của các nước trên thế giới 12%. IPC dự báo Việt Nam tiếp tục tăng 34% sản lượng hồ tiêu xuất khẩu trong 8 năm tới.

Câu hỏi đặt ra là khi nào nhu cầu tiêu thụ hồ tiêu thế giới sẽ bão hòa vẫn chưa có lời giải thỏa đáng. Bởi xu thế tiêu dùng hạt tiêu mới trên thế giới là sử dụng tiêu hữu cơ. Ngoài ra, làm thế nào nông dân có thể ký hợp đồng với doanh nghiệp sản xuất tiêu hữu cơ vẫn là câu hỏi khó trả lời.

Mô hình xen canh hiệu quả cũng được thảo luận, đó là hồ tiêu xen canh với dừa tại Sri Lanka, Indonesia; hồ tiêu xen canh với cau tại Ấn Độ và hồ tiêu xen canh với cà phê tại Việt Nam.


P.Hà (Nguồn từ VPA)
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020, huyện Phú Quốc (Kiên Giang) xác định cây tiêu là một trong nhiều thế mạnh kinh tế chủ lực, giúp cư dân trên đảo làm giàu chính đáng, tạo ra sản phẩm nông sản đặc trưng phục vụ khách du lịch. Với điều kiện thuận lợi về khí hậu, thổ nhưỡng và là loài cây trồng truyền thống nổi tiếng hơn một thế kỷ qua, Phú Quốc tập trung đầu tư phát triển cây tiêu hướng đến đạt chuẩn GlobalGAP...

Chất lượng tiêu Phú Quốc từng bước được nâng cao.
Nhiều giải pháp để cây tiêu phát triển

Do khí hậu và thổ nhưỡng phù hợp, hồ tiêu Phú Quốc nổi tiếng về chất lượng, được du khách trong và ngoài nước biết. Hai nhóm đất đỏ và đất pha cát thích hợp với cây tiêu có tổng diện tích khoảng 43.600ha, phân bố ở các xã Hòn Thơm, Hàm Ninh, Dương Tơ, Cửa Dương, Cửa Cạn, Gành Dầu, Bãi Thơm, An Thới và thị trấn Dương Đông. Nhờ đó, huyện đảo này phát triển mạnh nghề trồng tiêu. Hiện diện tích trồng tiêu ở Phú Quốc  khoảng 385ha, tập trung phần lớn ở 2 xã Cửa Dương và Cửa Cạn, năng suất bình quân 2 - 3 tấn/ha, sản lượng tiêu hạt gần 1.000 tấn/năm. Tùy vào thời điểm, giá tiêu trên thị trường dao động từ 140.000 - 180.000 đồng/kg. Từ nay đến năm 2015, Phú Quốc có kế hoạch mở rộng diện tích trồng tiêu lên 500ha, rồi 1.000 ha (năm 2020), phấn đấu năng suất đạt từ 3 tấn/ha trở lên.

Năm 2011, Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam đã trao giấy chứng nhận nhãn hiệu tập thể hồ tiêu Phú Quốc. Điều này không những khẳng định giá trị truyền thống, chất lượng hồ tiêu của “đảo ngọc”, mà còn là điều kiện thuận lợi để đưa thương hiệu đặc sản hồ tiêu Phú Quốc ra thị trường thế giới. Canh tác cây tiêu hướng đến GlobalGAP, huyện Phú Quốc xây dựng quy trình trồng tiêu hiệu quả, bền vững, chất lượng và thân thiện với môi trường; chuyển giao cho nông dân ứng dụng vào vườn tiêu. Hoạt động khuyến nông được đầu tư; nhất là hướng dẫn kỹ thuật trồng tiêu cho nông dân theo quy trình giảm thiểu các mối nguy hại liên quan đến việc sử dụng thuốc phòng trừ sâu bệnh, gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng bất lợi đến sức khỏe người sản xuất và cộng đồng. Cụ thể là giúp nông dân nắm rõ nguyên nhân khiến dịch bệnh (vàng lá chết nhanh, vàng lá chết chậm, rệp sáp hại rễ...) thường xuyên gây hại, đe dọa sự tồn tại của cây tiêu và biện pháp phòng bệnh, sử dụng thuốc đặc trị an toàn, hiệu quả. Ngoài ra còn có hàng loạt giải pháp khác:

Cải tạo, duy trì chất lượng đất canh tác theo hướng bền vững, nâng cao độ phì của đất, bảo vệ môi trường thông qua việc hạn chế sử dụng phân bón hóa học và hóa chất bảo vệ thực vật; tăng cường sử dụng phân hữu cơ, các biện pháp sinh học, quản lý dịch hại trong bảo vệ cây tiêu; hướng dẫn nông dân kỹ thuật bón phân, sử dụng loại phân bón hợp lý, cân đối đảm bảo cho cây tiêu được cung cấp đầy đủ, kịp thời những yếu tố dinh dưỡng thiết yếu để sinh trưởng, phát triển tốt; sử dụng giống tiêu mới có năng suất, chất lượng cao kết hợp áp dụng công nghệ tưới nhỏ giọt và xây dựng mô hình sản xuất tiêu đạt chuẩn GlobalGAP...

Phù hợp quy hoạch chung của “đảo ngọc”

Phó Chủ tịch UBND huyện Phú Quốc Huỳnh Quang Hưng khẳng định: Xây dựng vùng trồng tiêu đạt tiêu chuẩn GlobalGAP tại Phú Quốc rất phù hợp với quy hoạch xây dựng hòn “đảo ngọc” này trở thành trung tâm du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí cao cấp quốc gia và quốc tế theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, phù hợp với thực hiện “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” của huyện Phú Quốc. Huyện quy hoạch vùng trồng tiêu hợp lý gắn với đầu tư cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện cho nông dân vay vốn trồng tiêu, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm trong nước và xuất khẩu. Những vườn tiêu đạt tiêu chuẩn GlobalGAP sẽ trở thành điểm tham quan, thư giãn hấp dẫn cho khách du lịch trong và ngoài nước khi đến đảo. Việc xây dựng vùng trồng tiêu đạt tiêu chuẩn GlobalGAP cũng sẽ giúp cây tiêu Phú Quốc trở thành thương hiệu nổi tiếng, có khả năng cạnh tranh với giá cả cao hơn, là nguồn nguyên liệu quý cho sản xuất dược phẩm.

Đặc sản hồ tiêu Phú Quốc đang phát triển mạnh theo định hướng bền vững gắn với dịch vụ và du lịch, tạo cho “đảo ngọc” này thêm một nguồn lợi kinh tế lớn phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Phú Quốc đang nỗ lực phát huy tối đa lợi thế của nhãn hiệu “Hồ tiêu Phú Quốc”, đưa sản phẩm vươn ra thị trường khu vực và thế giới để vừa nâng cao giá trị kinh tế, phát triển của hồ tiêu, vừa giới thiệu, quảng bá du lịch Phú Quốc trong thực hiện “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”.

GIA BẢO
Theo laodong.com.vn
Theo thống kê của tỉnh Bình Phước, đã có 27.000ha nông nghiệp bị ảnh hưởng, 3.000ha hồ tiêu mất trắng hoàn toàn do hạn hán. Đặc biệt, toàn tỉnh còn có gần 10.000ha hồ tiêu cũng đang trong diện nguy hiểm nếu trời tiếp tục không mưa.

Những người trồng tiêu ở Bình Phước đang không biết phải xoay sở thế nào để đối phó với trận hạn lịch sử trầm trọng nhất từ trước đến nay.



Theo VTV

21/4/16

Nhằm đồng hành và hỗ trợ bà con nông dân hoạt động trong lĩnh vực trồng, chăm sóc, khai thác cây hồ tiêu tại Đăk Lăk và Gia Lai, Ngân hàng TMCP Quân Đội (MB) vừa chính thức triển khai sản phẩm “Cho vay đầu tư, chăm sóc cây hồ tiêu”.

Sản phẩm áp dụng đối với các khách hàng có hoạt động trong lĩnh vực trồng, chăm sóc, khai thác cây hồ tiêu ổn định, liên tục từ 12 tháng trở lên hoặc khách hàng có kinh nghiệm trong lĩnh vực trồng, khai thác, chăm sóc cây hồ tiêu tối thiểu 24 tháng tính đến thời điểm vay vốn.
Theo đó, các cá nhân và hộ gia đình hoạt động trồng, chăm sóc, khai thác cây hồ tiêu tại Đăk Lăk và Gia Lai có thể dễ dàng tiếp cận nguồn vốn vay của MB để trồng mới, tái canh, chăm sóc vườn cây hồ tiêu hoặc đầu tư tài sản cố định.

Chương trình áp dụng mức cho vay tối đa của sản phẩm lên tới 85% nhu cầu vốn với lãi suất cạnh tranh, thời gian cho vay tối đa lên đến 120 tháng phù hợp với đặc điểm sinh trưởng của cây hồ tiêu và nhu cầu của khách hàng.

Cụ thể, với hoạt động cho vay trồng mới tái canh, mua mới vườn cây, MB sẽ cho vay 80% nhu cầu vốn trong thời gian 60 tháng.

Với hoạt động cho vay đầu tư TSCĐ, MB cho vay 85% nhu cầu vốn trong thời gian 120 tháng.

Với hoạt động cho vay chăm sóc vườn cây, MB cho vay 80% nhu cầu vốn trong thời gian 12 tháng.

Với sản phẩm “Cho vay đầu tư, chăm sóc cây hồ tiêu”, MB mong muốn mang lại giải pháp tài chính tối ưu đồng hành cùng bà con nông dân ngành hồ tiêu đồng thời góp phần phát triển ngành nông sản mũi nhọn tại địa phương.

Để biết thêm thông tin chi tiết, khách hàng có thể liên hệ Trung tâm dịch vụ khách hàng 24/7: 1900 5454 26  hoặc các phòng giao dịch của MB tại Đăk Lăk và Gia Lai.

A.H
Theo Thời Báo Ngân Hàng
Tin từ Phòng NN-PTNT Châu Đức cho biết, toàn huyện hiện có 5.371ha hồ tiêu, năng suất bình quân ước đạt 18 tạ/ha. Thời gian gần đây, hạt tiêu đen Việt Nam bị một số thị trường nước ngoài cảnh báo dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, làm giá tiêu trong nước giảm mạnh, thấp hơn cùng kỳ năm trước khoảng 20 ngàn đồng/kg, dao động ở mức 140 ngàn đồng đến 160 ngàn đồng/kg. Tuy nhiên, với mức giá bán trên người nông dân trồng tiêu trên địa bàn vẫn có lãi.

Được biết, đã có 3 DN liên kết với nông dân triển khai các dự án sản xuất hồ tiêu sạch trên diện tích gần 500ha. Việc liên kết theo hình thức nông dân sản xuất theo quy trình được DN cấp chứng nhận, bao tiêu sản phẩm, bán giá cao hơn giá thị trường từ 1%-2%.

ĐAN CHÂU
Theo Báo BRVT

Nhiều vườn hồ tiêu ở huyện đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang đang trong tình trạng khô hạn nghiêm trọng, ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng sản phẩm tiêu hạt và sự phát triển của cây tiêu.
Nhiều vườn hồ tiêu ở Phú Quốc khô hạn nặng. Ảnh: TTXVN
Ông Nguyễn Minh Trực, Trưởng phòng Kinh tế huyện Phú Quốc cho biết: “Hàng chục hécta hồ tiêu trên đảo Phú Quốc đang ra trái bị khô hạn, thiếu nước tưới nghiêm trọng tập trung ở các xã Cửa Dương, Bãi Thơm và Gành Dầu.

Các giếng khơi, khe suối tại những khu vực đó hầu như không còn nước để tưới hồ tiêu và phục vụ sản xuất nông nghiệp. Nếu thời tiết khô hạn, nắng nóng tiếp tục kéo dài thì tổng diện tích hơn 500 ha hồ tiêu trên đảo không những giảm năng suất, chất lượng tiêu hạt vụ mùa này mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển của cây tiêu trong mùa vụ tới”.

Tận mắt chứng kiến vườn hồ tiêu hơn 2.000 bụi đang “khát nước” của nông dân Trần Văn Lợi, ấp Khu Tượng, xã Cửa Dương (Phú Quốc) mọi người không khỏi sốt ruột.

Cả vườn tiêu héo hắt thiếu sức sống, chuyển sang màu vàng và rụng lá, quả non dưới cái nắng đổ lửa như thiêu đốt. Tiêu đang ra trái xanh, nhưng gia đình ông Lợi buộc phải hái sớm nên hạt không căng, độ cay, nồng thơm kém xa so với thu hoạch khi hạt tiêu già, chín cây và giá bán giảm thấp.

Ông Lợi cho biết: “Nắng hạn, khô nóng và thiếu nước tưới, cây tiêu không còn đủ sức nuôi hạt đến khi chín nên buộc phải hái tiêu xanh để dưỡng cây cho mùa sau. Tôi đào hố lót vải bạt chống thấm, rò rỉ để chứa nước và xách nước tưới từng gốc tiêu sống cầm cự qua mùa khô. Dự báo, khô hạn còn kéo dài một, hai tháng nữa mới có mưa nên tôi đầu tư 35 triệu đồng khoan giếng lấy nước tưới, nhưng khoan hơn một tuần rồi vẫn chưa có nước. Vườn hồ tiêu này, vụ mùa năm 2015, thu hoạch hơn 4 tấn tiêu và bán được giá, thu về hàng trăm triệu đồng, nhưng năm nay thất mùa, giá cả sụt giảm, nên chưa biết thế nào”.

Chống chọi với thời tiết khô hạn và nắng nóng kéo dài bất thường bà Lê Thị Đông, cũng ở ấp Khu Tượng tận dụng nguồn nước ít ỏi ở hai giếng khoan công nghiệp giải cứu vườn tiêu hơn 2.000 bụi của gia đình. Bà Đông cho hay, nắng nóng quá gay gắt, tiêu bị cháy lá, khô héo và không nuôi nổi buồng tiêu cho đến chín nên nhiều nhà vườn phải hái tiêu non, chất lượng hạt giảm thấp.

Cửa Dương là xã có diện tích trồng hồ tiêu lớn nhất huyện đảo Phú Quốc với hơn 295 ha. Do ảnh hưởng của hạn hán, hàng chục nhà vườn ở đây không còn nước tưới cho cây tiêu và đang được chính quyền địa phương vận chuyển nước từ nơi khác đến. Bà con đang phải sử dụng nước hết sức tiết kiệm và trông chờ những cơn mưa vàng giải hạn bởi chở nước từ nơi khác về tưới tiêu chỉ là giải pháp tình thế.

Trước tình hình khô hạn diễn biến phức tạp, ảnh hưởng bất lợi đến các vườn hồ tiêu trên đảo, UBND huyện Phú Quốc đã chỉ đạo các địa phương khảo sát, thống kê lại những vườn tiêu đang bị thiếu nước nghiêm trọng, tập trung triển khai đồng bộ các biện pháp ứng phó để cứu tiêu.

Ông Nguyễn Minh Trực cho biết, các đơn vị chức năng của huyện phối hợp với xã, thị trấn hướng dẫn nông dân đào hố, lót vải bạt và huy động xe bồn hàng ngày vận chuyển nước từ hồ Dương Đông về cho bà con tưới tiêu.

Cùng với đó, hướng dẫn các nhà vườn mua màng phủ nông nghiệp che phủ mặt đất nhằm hạn chế bốc hơi nước kết hợp tưới lỗ, tưới nhỏ giọt tiết kiệm nước để duy trì độ ẩm cho đất trong phạm vi bộ rễ tiêu phát triển. Phần trên ngọn làm giàn phủ lưới che mát để giảm bớt độ nóng gây hại hồ tiêu.

Về lâu dài, huyện khuyến cáo và hướng dẫn các nhà vườn đầu tư theo mô hình trồng tiêu có phủ lưới, trang bị hệ thống tưới phun tự động. Mô hình này đang được địa phương khuyến khích phát triển do tiết kiệm nước, chi phí, sức lao động, nhất là trong tình hình thời tiết nắng nóng, khô hạn kéo dài, thiếu nước tưới tiêu như hiện nay.

Lê Huy Hải/TTXVN
Thực hiện chương trình Xúc tiến thương mại quốc gia năm 2016 Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam (VPA) tổ chức đoàn “Khảo sát thị trường Mỹ, tham dự Hội nghị thường niên Hiệp hội Thương mại gia vị Mỹ (ASTA 2016)” từ ngày 10-18/4/2016. Trong chương trình công tác, ngày 14 tháng 4 năm 2016 đoàn VPA đã có buổi làm việc với Trung tâm Xúc tiến thương mại Việt Nam tại New York, Hoa Kỳ.


Tại buổi làm việc, hai bên đã trao đổi thông tin về thị trường, đối tác và những yêu cầu của doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu sản phẩm nông sản.


Theo ông Đỗ Hà Nam, Chủ tịch Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam (VPA), năm 2015, cả nước xuất khẩu khoảng 130.000 tấn hồ tiêu, đạt giá trị 1,24 tỷ USD, giảm 17% về khối lượng nhưng tăng 2,8% về giá trị so với năm 2014.

Ông Nam cho biết, từ năm 2000 đến nay, Việt Nam liên tục đứng đầu thế giới về sản xuất và xuất khẩu hồ tiêu, chiếm 50% sản lượng xuất khẩu toàn cầu.

Bên cạnh thuận lợi về thị trường và giá cả thì cũng không ít khó khăn mà các doanh nghiệp kinh doanh hồ tiêu gặp phải. Đó là việc thị trường hồ tiêu đang chịu sự chi phối khá lớn của người sản xuất, nhiều người dân khi thấy giá tiêu xuống thì trữ hàng, hạn chế bán ra nên lượng tồn kho vẫn còn nhiều, dẫn đến lượng xuất khẩu trong năm 2015 không cao, ảnh hưởng đến chất lượng hồ tiêu.

Bên cạnh đó, ngành hồ tiêu cũng đang phải đối mặt với những yêu cầu khắt khe hơn của các thị trường thế giới về vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm và dư lượng thuốc bảo vệ thực vật.
Đoàn VPA tại Văn phòng Vietrade tại New York
Theo ông An Thế Dũng, Giám đốc Trung tâm Xúc tiến Thương mại tại New York, thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ có sự tăng trưởng tốt trong những năm vừa qua. Năm 2015 kim ngạch thương mại hai nước đạt 45 tỷ USD, tăng 25% so với năm 2014. Việt Nam đã có vị trí trong Top 15 đối tác thương mại lớn nhất của Hoa Kỳ. Tháng 1/2016, Việt Nam đứng thứ 12/15 đối tác nhập khẩu lớn của Hoa Kỳ, tháng 2/2016 chúng ta vươn lên vị trí 11/15. Có thể còn sớm khi cho rằng đã có những tác động tích cực từ Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đối với quan hệ thương mại. Nhưng ít nhiều đây cũng là những tín hiệu tốt, hứa hẹn những bước tiến mới trong quan hệ thương mại giữa hai nước.

Đối với mặt hàng gia vị, hiện nay Việt Nam đứng đầu trong Top 5 nước xuất khẩu nhiều nhất vào Hoa Kỳ, thứ đến là Brazil, Indonesis, Trung Quốc và Ấn Độ. Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường xuât khẩu hạt tiêu lớn nhất của Việt Nam với giá trị đạt hơn 255 triệu USD, tăng 39,4%.

Về khó khăn, ông Dũng chia xẻ, vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm luôn là nỗi ám ảnh đối với các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản. Theo quy định hiện nay của Hoa Kỳ thì nông sản phải đáp ứng các tiêu chuẩn vệ sinh-an toàn thực phẩm. Nông sản vào thị trường Mỹ cần phải được kiểm tra, giám sát ngay từ khâu nuôi trồng, vùng nuôi trồng đến sản phẩm hoàn chỉnh, tuân thủ quy trình chiếu xạ chống ký sinh trùng, chứng chỉ an toàn thực phẩm, nguồn gốc xuất xứ...

Đại diện công ty Generalexim, bà Nguyễn Thu Hoài, Tổng giám đốc đề nghị VIETRADE NEW YORK giúp tìm kiếm các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ có khả năng trực tiếp đầu tư vào khâu nuôi trồng, đào tạo nông dân về kỹ năng, quy trình sản xuất đảm bảo quy định của Hoa Kỳ về an toàn thực phẩm. Cần có thêm những cơ hội để trao đổi thông tin với các nhà nhập khẩu, qua đó họ có thêm sự tin tưởng đối với sản phẩm nông sản Việt Nam.

Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam đánh giá cao sự chủ động, hỗ trợ tích cực của Vietrade New York đối với hoạt động của đoàn, khẳng định những tác động của hoạt động xúc tiến thương mại đã tạo lực đẩy mới cho sự phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam. Hiệp hội đề nghị Vietrade New York cùng phố hợp tham gia Hội nghị ASTA hàng năm, nghiên cứu cách thức hợp tác xúc tiến thương mại trong thời gian tới giữa VPA và Vietrade New York./.
Theo Vietrade

6/4/16

Ông Lê Tiến Dũng, Trưởng Phòng NN&PTNT huyện Vĩnh Linh (Quảng Trị) cho biết, do ảnh hưởng của đợt rét từ ngày 22-27/1/2016, phần lớn diện tích các loại cây nông sản tại địa phương bị ảnh hưởng, trong đó nặng nhất là cây hồ tiêu. Cụ thể, hầu hết diện tích hồ tiêu đều bị rụng đốt và rụng lá xanh hành loạt. Một số vườn tiêu ở vùng thấp trũng hay nằm trong đường đi của luồng gió lạnh còn bị rụng thêm chuỗi và khô đọt non. Các hiện tượng trên xuất hiện đúng vào thời điểm cây tiêu đang tập trung chất dinh dưỡng để nuôi hạt nên ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất và chất lượng sản phẩm, ước tính năng suất giảm từ 40-50% so với năm ngoái. Các địa phương trồng hồ tiêu bị ảnh hưởng nặng nề nhất là các xã: Vĩnh Tú, Vĩnh Kim, Vĩnh Nam, Vĩnh Hiền, Vĩnh Hòa...
Người dân Vĩnh Linh tích cực chăm sóc vườn tiêu sau rét
Hồ tiêu là một trong những loại cây công nghiệp dài ngày mang lại nguồn thu nhập khá cao và ổn định cho nông dân huyện Vĩnh Linh. Nhờ năng suất cao, giá cả ổn định nên hàng năm địa phương đã chủ động mở rộng diện tích để tăng thu nhập. Đến nay, toàn huyện có tổng diện tích cây hồ tiêu là 1.240 ha, tăng 100 ha so với năm 2015. Tiêu Vĩnh Linh có đặc điểm là hạt nhỏ, cay, thơm nên được thị trường ưa chuộng, huyện đang tích cực xây dựng thương hiệu cho hồ tiêu để giúp các hộ gia đình yên tâm phát triển sản xuất, nâng cao hơn nữa giá trị kinh tế cho hồ tiêu Vĩnh Linh trên thị trường.

Trước những diễn biến bất lợi của thời tiết gây ảnh hưởng xấu đến năng suất cây tiêu, Phòng Nông nghiệp &PTNT huyện Vĩnh Linh đã tranh thủ ý kiến của các chuyên gia, các cơ quan chuyên môn, sự hỗ trợ của các dự án để ban hành quy trình chăm sóc, hướng dẫn giúp người dân phục hồi vườn tiêu sau rét. Phối hợp tổ chức các lớp tập huấn trang bị kiến thức cần thiết để người dân chăm sóc vườn tiêu tốt hơn như cách sử dụng các loại phân hữu cơ vi sinh, phân bón sinh học, phân bón qua lá... giúp cây tiêu sớm phục hồi.

Tin & Ảnh: THANH LÊ
Theo Báo Quảng Trị 



 Hiện nay, tỉnh Đăk Lăk đã có 1.494 ha hồ tiêu bị khô hạn, thiếu nước tưới làm giảm năng suất hoặc mất trắng gây thiệt hại lớn cho đồng bào dân tộc.

Diện tích hồ tiêu bị khô hạn, thiếu nước tưới tập trung nhiều nhất là huyện Ea H’Leo, có trên 512 ha. Tiếp đến là các huyện Krông Ana, Cư Kuin, Krông Năng. Đây cũng là năm đầu tiên tỉnh Đăk Lăk có diện tích hồ tiêu bị khô hạn thiếu nước tưới xảy ra trên diện rộng.              

Gia đình anh Nguyễn Văn Lân ở thôn 1, xã Ea H’Leo (huyện Ea H’Leo) đã tự ý phá bỏ 2 ha điều, vườn tạp chuyển sang trồng hồ tiêu và đầu tư xây dựng một giếng đào, một giếng khoan để lấy nước tưới cho vườn tiêu. Qua gần 5 năm, vườn tiêu của anh Lân mỗi năm cho từ 5-7 tấn tiêu hạt khô và sau khi trừ các khoản chi phí, gia đình anh Lân lãi từ 400-600 triệu đồng. Tuy nhiên, từ sau Tết Nguyên đán đến nay, hai giếng nhà anh Lân hiện có đã không có nước. Gia đình đã khoan thêm 2 giếng khoan nữa nhưng cũng không có nguồn nước khiến cho vườn tiêu chết khô dần.              

Còn gia đình anh Võ Hùng cũng ở xã Ea H’Leo thấy nhiều gia đình trồng hồ tiêu giàu lên nhanh cũng chuyển 1 ha đất vườn điều sang trồng tiêu. Thế nhưng, vườn tiêu trong thời kỳ kiến thiết cơ bản gặp nắng hạn, thiếu nước tưới cũng đang chết khô dần…              

Theo các gia đình trồng tiêu ở huyện Ea H’Leo, vốn đầu tư trồng hồ tiêu khá lớn, từ 400 triệu đồng trở lên cho 1 ha, gồm cải tạo đất, đào hố, trụ đến tiêu giống, phân bón lót… Việc khô hạn, thiếu nước tưới để vườn tiêu chết khô dẫn đến thiệt hại về kinh tế khá lớn cho đồng bào các dân tộc trên địa bàn.              

Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Đăk Lăk, trong vài năm trở lại đây giá tiêu tăng cao, có lúc tăng đến 200.000 đồng/kg nên đã thu hút đông đảo đồng bào các dân tộc ồ ạt tự phát mở rộng diện tích cây hồ tiêu. Thậm chí, đồng bào đưa cây hồ tiêu vào trồng ở những vùng đất không thuận lợi, không chủ động nguồn nước, sử dụng giống không rõ nguồn gốc… Qua kiểm tra bước đầu tại các vùng tiêu bị khô hạn cho thấy, phần lớn diện tích hồ tiêu đều trồng ở những những nơi không chủ động được nguồn nước, toàn bộ các vườn tiêu đều sử dụng nước từ giếng đào, giếng khoan…  

Theo quy hoạch, đến năm 2020, tỉnh Đăk Lăk mới định hình được 6.000 ha cây hồ tiêu ở những vùng có điều kiện thổ nhưỡng, nguồn nước tưới thuận lợi nhưng hiện nay, diện tích cây hồ tiêu của tỉnh Đăk Lăk đã tăng lên 21.440 ha. Đây cũng là địa phương có diện tích cây hồ tiêu nhiều nhất so với các tỉnh Tây Nguyên./.

 Quang Huy/TTXVN

Theo tổng hợp của GS Bùi Chí Bửu và Cộng sự thuộc Viện KHNN Miền Nam 3/2016: Cây hồ tiêu có tên Latinh là Piper nigrum với 2n = 52 nhiễm sắc thể, thuộc dạng tứ bội (tetraploid). Bản chất là cây tự thụ phấn nhưng thực tế có thụ phấn chéo do kiến trúc hoa đực chín muộn hơn hoa cái. Trong SX cây thường được nhân giống vô tính bằng kỹ thuật cắt thân, giâm cành.

Kích cỡ bộ genome hồ tiêu ước khoảng: 6,7 Gbp. Người ta đã công bố có 134 chuỗi trình tự trong cơ sở dữ liệu GeneBank  với “public domain” là 2011 trình tự.

Trung tâm khởi nguyên của hồ tiêu là Western Ghats thuộc miền Nam Ấn Độ, nơi mà mức độ đa dạng di truyền cây hồ tiêu rất lớn trong các giống tiêu trồng. Tính trạng liên quan đến phẩm chất gia vị, đặc biệt là ‘piperine’ (1-piperoylpiperidine, với những alkaloid chủ yếu) được đặc biệt nghiên cứu.

Nghiên cứu tế bào học cho thấy số nhiễm sắc thể căn bản của chi Piper là x = 13, trong khi đó loài Piper nigrum thuộc nhóm tứ bội (tetraploid) (2n = 52). Cơ hội thụ phấn chéo giữa các loài khác nhau có thể xảy ra một khi các loài tiêu ấy bò lên trên cùng một cây trụ. Do thiếu cơ chế chuyển dịch hạt phấn, hiện tượng dòng chảy của gen ngay sau đó khá hạn chế trong các dòng con lai. Áp dụng kỹ thuật NGS (next generation sequencing) có thể giải mã trình tự của bộ genome và bộ transcriptome cây hồ tiêu.

Một nghiên cứu khác về hệ transcriptome của rễ tiêu của Gordo et al. (2012) cho thấy: có sự tương tác giữa mầm bệnh và rễ cây chủ giúp người ta xác định được giống hồ tiêu kháng bệnh thông qua kỹ thuật chọn giống nhờ di truyền phân tử. Công nghệ “RNA-Seq” đã và đang được ứng dụng phổ biến nhằm mô tả hệ thống transcriptome của rễ cây hồ tiêu. Hệ thống transcriptome của rễ cây hồ tiêu được giải trình tự bằng công nghệ NGS SOLiD và được tổng hợp theo phương pháp multiple-k. Sử dụng Blast2Go và orthoMCL để chú thích 10.338 unigenes. Thông qua 4472 protein dự đoán, người ta thấy có khoảng 52% ở dạng tương đồng với hệ thống proteome của cây mô hình Arabidopsis. Hai bộ proteomes trong rễ cây hồ tiêu xác định được 615 proteins. Những protein này liên quan đến các tính trạng của hệ thống rễ. Chỉ thị phân tử SSR cũng được người ta xác định trong nghiên cứu đa dạng di truyền phục vụ yêu câu ứng dụng công nghệ sinh học và sinh thái học. Bộ dữ liệu đồ sộ của 10.338 unigenes trở nên vô cùng quan trọng cho việc chọn giống tiêu nhờ chỉ thị phân tử và nghiên cứu “ecogenomics”.

Thách thức lớn nhất trong di truyền và chọn giống là tạo ra giống tiêu kháng được hai đối tượng gây bệnh hại chính: Phytophtora capsici và Fusarium solani f. sp. piperis. Tiếp cận phương pháp hiện đại là NGS (next-generation sequencing), người ta đang đứng trước cơ hội mới để vượt qua thách thức này. Gordo và ctv. (2012) đã sử dụng công nghệ RNA-seq để phân tích bộ transcriptome của rễ cây hồ tiêu. Có khoảng 71 triệu “reads” được tạo ra và 22.363 phân tử transcript được tổng hợp de novo từ mô rễ trong đó có 257 chỉ thị SSR được xem như bộ cơ sở dữ liệu đầu tiên giúp nhà chọn giống thực hiện chiến lược chọn giống nhờ chỉ thị phân tử.

Loài tiêu hoang dại Piper colubrinum Link, thuộc họ Piperaceae là nguồn cho gen kháng với Phytophthora capsici, gây bệnh chết nhanh; kháng tuyến trùng Meloidogyne incognita và Radopholus similes. Tuy nhiên, kết quả lai giữa P. nigrum và P. colubrinum chưa thành công. Nguyên tắc chủ đạo: cây tiêu phản ứng lại sự tấn công của những vi sinh vật gây hại ấy thông qua sự kích hoạt số lượng lớn các gen mã hóa những protein khác nhau, chủ yếu là những chitinases. Chitinase sẽ phân giải lớp chitin, một dạng polymer thuộc nhóm N-acetyl-glucosamine có trong thành tế bào của vi nấm và trong lớp sừng của côn trùng.

Thành tựu của genomics và transcriptomics đã mở ra nhiều triển vọng cho nghiên cứu di truyền cây hồ tiêu trong tương lai./.
Theo VPA
Những năm gần đây, do giá cao nên nông dân tỉnh Phú Yên phá bỏ diện tích sắn, bắp để trồng hồ tiêu. Tuy nhiên, việc người dân đổ xô trồng tiêu tự phát, không chỉ dẫn đến nguy cơ phá vỡ quy hoạch, mà còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, trong khi không am hiểu kỹ thuật chăm sóc nên cây tiêu bị nhiễm bệnh, giá cả phụ thuộc vào thương lái.

Vườn tiêu rộng 4.000 m2 của anh Hồ Hoàn Toàn ở thôn Mỹ Bình, xã Sơn Thành Đông, huyện Tây Hòa trồng cách đây 8 năm và đã cho thu hoạch. Riêng năm 2015, giá tiêu được thương lái mua trên dưới 200.000 đồng/kg khô, anh Toàn lãi 170 triệu đồng. Chính vì vậy, anh Toàn đã ươm giống để trồng thêm 2.500 m2 nữa nhưng mới đây lại xuất hiện nhiều gốc có hiện trượng nhiễm bệnh. Lo lắng trước việc vườn tiêu đang có tình trạng chết hàng loạt, anh Toàn cho biết: “Đây là vùng đất phù hợp trồng loại cây này. Nếu cây phát triển ổn định sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, để trồng được loại cây này đòi hỏi phải có kỹ thuật và cách chăm bón cẩn thận. Tôi rất lo lắng trước tình trạng vườn tiêu đang đồng loạt nhiễm bệnh”.

Tương tự, vườn tiêu rộng 3.750 m2 trồng gần hai tuổi của anh Nguyễn Công Loan cũng ở thôn Mỹ Bình sinh trưởng tốt nhờ chăm sóc kỹ và áp dụng quy trình tưới khép kín với tổng vốn đầu tư gần 300 triệu đồng. Cách đây hai năm, diện tích đất này anh Loan trồng sắn, bắp, đậu các loại, nhưng hiệu quả kinh tế thấp, nên quyết định chuyển sang trồng tiêu. “Thấy người ta đổ xô trồng tiêu, mình có đất nên cũng đầu tư trồng 600 gốc. Tuy tiêu chưa đến kỳ thu bói, nhưng thấy phát triển khá tốt. Nếu tiêu bị nhiễm bệnh thì tự học hỏi, tìm tòi trên mạng Internet để chữa trị, chứ chưa được dự tập huấn lần nào. Giá tiêu từ 150.000 đồng đến 170.000 đồng/kg khô là có lãi, nếu xuống 100.000 đến 120.000 đồng thì cầm cự do đầu tư ban đầu quá lớn”, anh Loan nói.

Xã Sơn Thành Đông có gần 300 hecta tiêu, nhưng đến nay chỉ có hai vùng trồng tiêu được quy hoạch ở thôn Mỹ Bình và Thành An với diện tích 19,5 hecta. Ông Nguyễn Văn Thành, Phó Chủ tịch UBND xã Sơn Thành Đông cho biết: “Những năm tới, địa phương tiếp tục quy hoạch vùng khác đủ điều kiện về thổ nhưỡng và nước tưới để nhân dân trồng tiêu phát triển kinh tế hộ”.

Trong khi đó, vùng trồng tiêu lớn thứ hai của tỉnh là huyện miền núi Sông Hinh cũng đang xuất hiện bệnh chết nhanh, chết chậm trong khi khoảng 2 tháng nữa là vào mùa thu hoạch. Như vườn tiêu 5 năm tuổi của ông Nguyễn Văn Lộc ở thôn Bình Sơn, xã Sông Hinh đang bị khô ngọn, úa lá. Ông Lộc cho biết, cuối năm 2015 trong vườn tiêu lác đác xuất hiện tiêu nhiễm bệnh. Ông đã không ngại khó khăn lặn lội sang tận hai tỉnh kề bên là Đắc Lắc, Gia Lai để học hỏi kinh nghiệm và mua thuốc về chữa trị. Tuy nhiên, đến nay lần lượt những gốc tiêu nhiễm bệnh khô cành, rụng lá. Ông Trần Văn Thế, cán bộ phòng NN&PTNT Huyện tăng cường về xã Sông Hinh cho biết: “Hiện toàn xã có khoảng 30 hecta tiêu nhưng 25% trong số đó đã bị chết vì bệnh chết nhanh, chết chậm”…

Theo quy hoạch phát triển ngành hồ tiêu Việt Nam, Bộ NN&PTNT đã phân bổ cho tỉnh Phú Yên diện tích trồng tiêu đến năm 2020 là 400 hecta nhưng trên thực tế đến cuối năm 2015 diện tích đã lên đến 800 hecta, trong đó hơn một nửa diện tích đã cho thu hoạch với sản lượng 1.200 tấn.

Đồng thời trong đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp đến năm 2020, tỉnh Phú Yên chủ trương mở rộng diện tích cây tiêu lên khoảng 1.000 hecta, chủ yếu tập trung ở hai xã Sơn Thành Tây và Sơn Thành Đông (huyện Tây Hòa) với diện tích 750 hecta. Diện tích còn lại thuộc huyện miền núi Sông Hinh và một ít ở huyện miền núi Sơn Hòa.

Ông Nguyễn Đức Thắng, Phó phòng Nông nghiệp thuộc Sở NN&PTNT Phú Yên cho biết: “Trên cơ sở gần 800 hecta hiện nay có sẵn, ngành nông nghiệp sẽ rà soát lại và sẽ bổ sung từ 200 hecta đến 300 hecta”.

Theo Sở NN&PTNT Phú Yên, việc mở rộng diện tích trồng tiêu là đúng định hướng phát triển kinh tế nông nghiệp. Tuy vậy, do hiện nay việc trồng tiêu mang tính tự phát nên để giúp nông dân trồng tiêu hiệu quả, ngành nông nghiệp sẽ phối hợp với các cơ quan chức năng thực hiện tốt nhiệm vụ trọng tâm là tập huấn, hướng dẫn nông dân trồng tiêu theo quy trình sản xuất nông nghiệp tốt (GAP), sử dụng phân hữu cơ, không lạm dụng phân hóa học và thuốc BVTV trong phòng trừ dịch bệnh hại tiêu vốn là những điểm yếu trong canh tác của nông dân hiện nay…

Ông Nguyễn Đức Thắng cho biết thêm: “Ngành nông nghiệp Phú Yên tập trung quản lý ngay từ khâu giống, đặc biệt là các cơ sở phải có các điều kiện sản xuất, kinh doanh về giống thì mới được phép hoạt động. Sau đó là xây dựng các mô hình tiên tiến như sản xuất theo quy trình VietGap, áp dụng biện pháp bón phân, tưới nước tiết kiệm để giảm chi phí; hạn chế tối đa việc xới đất làm tổn thương bộ rễ gây ra bệnh chết nhanh, chết chậm”.
Nguồn Agroviet.gov.vn/XTTM
    CÂY TIÊU VIỆT NAM
    caytieuvn@gmail.com